Translate

Thứ Bảy, 18 tháng 7, 2015

“VƯỢT CẠN",
NỤ CƯỜI VÀ NƯỚC MẮT...


  
 Nhà tôi ở cạnh Trạm Y tế của một xã. Chiều chiều, tôi vẫn thường dắt con sang trạm chơi, hòng trốn đi những giây phút căng thẳng của đời thường. Một chiều đông lạnh tê tái, thấy có chị phụ nữ gầy sắt, phong phanh chiếc áo nâu sồng, lủi thủi ôm bụng, cắp chiếc nón rách tươm vào Trạm xin đẻ. Tôi hỏi người nhà? Chị giấu khuôn mặt đen đúa vào vành nón khóc tức tưởi. Lúc sinh được một bé gái kháu khỉnh, không có lấy một cái tã, không có lấy một cái áo sơ sinh... ngoài một cái áo cũ xé đôi để bọc cho đứa con tím tái. Cả gia đình nhà đẻ, nhà chồng không một ai đoái hoài đến chị ngoài đứa con gái mới lớn mười hai tuổi. Nghe đâu cả nhà chồng, nhà đẻ đều bảo: “nó không biết đẻ”(!). Của đáng tội, kỳ sinh này là lần thứ năm chị sinh con gái...
            Không biết tự bao giờ và không biết vị tiền nhân nào đặt cho sự sinh hạ của người phụ nữ cái tên “Vượt cạn” thật chuẩn xác. Chỉ hai từ đủ nói lên sự vất vả, khổ sở của người phụ nữ cả đời mang nặng, đẻ đau. Nhưng thôi, xin khỏi nói về nỗi đau của người phụ nữ khi “vượt cạn”, vì có giấy bút nào tả cho hết! Chỉ xin nói đôi chuyện về nỗi đau tinh thần của người phụ nữ khi “vượt cạn”, nhất là phụ nữ nông thôn, và nhất là khi sinh con một bề là gái. Đối với một người đàn ông, có hạnh phúc nào lớn hơn là được đứng đón vợ trước cổng nhà hộ sinh; có hạnh phúc nào lớn hơn hạnh phúc được làm cha, làm mẹ. Đối với những người phụ nữ, tiếng khóc oa oa chào đời của đứa trẻ sơ sinh là kết thúc sự đau đớn về thể xác, nhưng cũng có thể là sự bắt đầu của nhiều nỗi đắng cay. thành phố, nhất là những gia đình trí thức, công chức, khi đến đón con từ nhà hộ sinh, chí ít người ta cũng bày tỏ niềm vui bằng những bó hoa, những chiếc ô-tô láng bóng đi thuê, bằng những chúc tụng... Người ta vẫn bảo: thêm người, thêm của mà lại. ít ai nghĩ đến chuyện con trai, con gái. Có chăng, chỉ là những nỗi buồn thoáng qua. Hôm ăn cỗ đầy tháng đứa con gái thứ hai của một anh bạn ở Hà Nội, ngồi giữa đống hoa tươi, rượu ngoại, giữa núi đường, núi sữa... tôi lại chạnh nhớ đến chị phụ nữ đến Trạm Y tế một mình vào chiều đông nọ. Cũng cảnh “vượt cạn” với nhau, sao người sung sướng làm vậy, người đắng cay đến thế? Hóa ra, chỉ tại cái câu từ ngàn xưa để lại: “Thập nam viết hữu, thập nữ viết vô” còn đè năng lên thân phận người phụ nữ. Đẻ toàn con gái, lấy ai nối dõi tông đường, lấy ai “chống” gậy lúc... chết! Và cứ thế, nhiều gia đình đã trượt dài, suy sụp về chuyện con trai, con gái. Hiền, người bạn gái cùng cấp hai với tôi thưở nào, nổi tiếng nết na, xinh xắn nhất làng, học xong lớp 7 đã vội ở nhà lấy một anh con trai vốn “độc đinh” nhưng gia đình giầu có. Nay, mới ba mươi tám tuổi mà trông như gần năm mươi với 5 đứa con gái, đứa út gần năm đã lại thấy cái bụng nghễu nghện. Còn nhà chồng thì từ giầu có nhất làng, sau hơn 10 năm đẻ hòng phá thế “độc đinh” trở thành nghèo xác vì người ăn thì nhiều, người làm không có, anh chồng chán trường lao vào chè rượu, vợ thì bụng mang dạ chửa quanh năm. y vậy mà hôm vừa rồi về quê ăn Tết Canh Thìn, thấy anh chồng còn tuyên bố một câu xanh rờn: Trăm bó đuốc, thế nào cũng được... con ếch(!). Anh bảo: ở quê, đẻ con gái không những “mất giống”, mà còn được mời đi ăn cỗ cũng không giám đi! Các ông bố đẻ toàn con gái đi ăn giỗ họ cũng phải ngồi chung một mâm ở nơi khuất mắt. Chẳng ai bắt thế vì chẳng nơi nào còn giữ cái hủ tục ấy, song như một lẽ thường tình, chẳng ai bảo ai, “hội ông ngoại” vẫn tự tìm đến nhau. Vì vô tình nếu có “ông nội” nào lọt vào mâm, có khi chỉ vài câu đùa, một câu khích bác là có chuyện rách việc. Mấy năm trước, đã có vụ án mạng bên mâm rượu chỉ vì khích nhau chuyện con trai, con gái. Mà chuyện này không chỉ dừng ở mấy ông nông dân; cả trí thức cũng có chuyện như vậy. Một ông Hiệu trưởng trường cấp 1 ở M.Đ (Hà Tây) đã có 4 đứa con gái. Tới đứa con gái thứ 5, sau khi vợ đi Trạm Y tế, người nhà phải nói dối vợ sinh con trai để anh giáo yên lòng. Anh giáo vội đạp xe đi chợ huyện, mua gà về để liên hoan, mua thịt nạc về để làm ruốc... Về đến bờ ao, có người thông báo thật để anh khỏi bất ngờ: con gái! Lập tức, anh quẳng cả gà, cả thịt xuống giữa ao, để rồi đến chiều lại ra ao nhì nhọp lặn tìm cân thịt nạc vì xót của! Lại có ông kỹ sư nông nghiệp huyện P., vợ đã đẻ hai đứa con gái, muốn đẻ đứa nữa mà sợ luỵ đến đường công danh. Ông kỹ sư lập kế, cho vợ vào miền Nam “thăm người nhà” để đẻ đứa nữa, mang ra nói dối là “xin thằng bé bị kẻ vũ phu bỏ rơi”... Chẳng biết mẹ nuôi thương con nuôi đến mức nào mà tiết cả sữa cho thằng bé bú chùn chụt(!). Lúc ấy mới lòi đuôi ra và ông mất luôn chức “lao động tiên tiến”. Khổ nỗi, ngày nay, trong các đám cưới trang nghiêm, trong buổi gặp nhau đầu xuân, người ta vẫn thường chúc nhau đẻ con trai đầu lòng, ít ai chúc nhau lập nghiệp, hạnh phúc! Có ông chồng chỉ vì lời chúc, khát con trai, bèn áp dụng “biện pháp khoa học” về ăn kiêng, uống kiêng, kiêng đủ thứ đến phát bệnh để rồi cuối cùng chẳng có lấy nổi một mụn con dù là gái. Nay nghe tin, nhiều người còn bán lợn, bán lúa non lấy tiền về tận Thái Bình, ra tận Hà Nội để xét nghiệm; nghe đâu ở đấy có chỗ đoán giới tính thai từ khi được một, hai tháng. Nếu trai thì để, nếu gái thì “triệt” luôn! Có nhà có 3 cô con dâu, dẻ được 6 đứa toàn là gái. Bà mẹ chồng treo giải thưởng: 2 cây vàng cho đứa nào đẻ được cháu trai! Thế là cả ba cô con dâu đều ngấm ngầm thi nhau... đẻ. Ba năm sau, ba cô con dâu đã nâng số cháu gái của bà lên... 12 đứa, bà mới té ra là mình... dại. Có những kẻ vì khát quá mà sinh lú lẫn, mất hết tính người. Nhớ chuyện động trời hồi giữa năm 1993: gã nông dân đã 5 lần sinh con gái. Đến lần thứ 6, cũng lại là con gái, người nhà phải nói dối là trai để  gã yên lòng. Khi đến nhà hộ sinh, thấy là con gái, gã giằng lấy đứa bé vứt ra ngoài cửa sổ rồi bỏ trốn. Thương tâm nhất là vụ án ở P.T hồi giữa năm 1995. Cũng lại một gã nông dân vợ 4 lần sinh con gái. Đến lần vợ mang thai đứa thứ 5 đến tháng thứ 7, hắn đi xem bói. Lão thầy bói bảo lần này lại sinh con gái. Hắn uống rượu say, cầm dao đâm chết vợ rồi trói cả 4 đứa con gái cùng định nhảy xuống sông, may có người cứu được cả năm cha con. Đến lúc mổ tử thi người vợ, hắn mới ngất đi vì biết đứa bé xấu số là một bé trai! Bố vào tù, mẹ chết; 4 đứa con gái, đứa lớn nhất mới hơn 10 tuổi phải nương  nhờ vào bà con lối xóm. Trước khi lãnh án, sao hắn không biết một điều rằng, con nào mà chẳng là con; vả lại nếu có sinh toàn con gái cũng là tại hắn, chứ đâu có phải tại người đàn bà xấu số kia?
            Còn chuyện 2 mẹ con bị chồng và gia đình nhà chồng bỏ đói vì “tội đẻ con gái” là chuyện cơm bữa. Sinh con, ai chẳng muốn có nếp, có tẻ; song những người như “hắn” làm cho người phụ nữ vốn lam lũ, tần tảo, đã phải mang nặng, đẻ đau, lại phải mang trên người một tâm trạng nơm nớp đến quằn quại chỉ lo mình lại sinh con gái. Vô lý thay, khi phần lớn phụ nữ đều cảm thấy mình có lỗi nếu mình không đẻ được con trai cho gia đình nhà chồng?
            Thay cho bài viết này là chuyện về một ông giáo làng đã về hưu ở Đ.T; hồi ông đang đi dạy học, bà giáo cũng đẻ một lèo 4 cô con gái. Lúc gần về hưu, ông bắt bà đẻ thêm lần chót hòng kiếm “thằng cu”. Nào ngờ, lần ấy bà giáo đẻ sinh đôi liền 2 cô con gái. Đặt tên cho 2 cô gái út là Hằng, Nga xong, ông ra... ở riêng một mình khi tuổi đã ngoài năm mươi! Nay, 4 cô chị đã học xong đại học, đứa bác sĩ, đứa giáo viên... Hai cô út, Hằng, Nga xinh như hoa hậu, mới học đại học năm thứ  hai đã nhiều kẻ rập rình, quà cáp... Thấy mấy anh con trai nhà hàng xóm vừa làm cỗ cúng 3 ngày bố xong đã cãi nhau ầm ĩ về chuyện đất cát chia nhau không đều, ông giáo mới móm mém cười, chép miệng nói vui với bà giáo: Giá hồi ấy “bà nó” đẻ sinh tư lại hóa hay...!
T.N

Thứ Sáu, 5 tháng 6, 2015

Hậu vụ án oan 2.000 ngày ở Nghệ An:

LỜI NGUYỆN CẦU MÙA HẠ

KỲ 1: CÁI TẾT ĐỊNH MỆNH

Mười năm về trước, mọi người đã biết đến anh qua "Vụ án oan 2.000 ngày" nổi tiếng một thời. Hàng chục bài báo, và có cả một vở kịch nói hoành tráng dàn dựng công phu kể về oan khuất của anh, một người Thầy từng đứng trên bục giảng đường Đại học. Và bây giờ, phải hơn chục năm sau cái ngày ấy, tôi mới được gặp anh dưới cái nắng như đốt của tháng bẩy xứ Nghệ. Quá khứ vẫn đeo đẳng. Biết tôi làm ở tờ Báo của ngành BHXH, anh dẹo dọ một tay chống nạng ra đứng giữa cái sân trị nóng như  rang, tay kia huơ huơ lên trời mà rằng:
"Đúng là cầu được, ước thấy. Tui vừa gửi đơn đến ngành BHXH hôm kia, nay đã thấy có người về. Nguyện cầu trời xanh thỉnh với "cấp trên" để tui được... hưởng chế độ..."!

Nguyễn Sỹ Lý
Nguyễn Sĩ Lý sinh năm 1956 trong một gia đình thuần nông song có tiếng là gia giáo ở xã Viên Thành, huyện Yên Thành, Nghệ Tĩnh (nay là tỉnh Nghệ An). Bố là nhà giáo nghỉ hưu, cộng với cái "máu học" xứ Nghệ, 5 anh em nhà Lý rau cháo quanh năm song cũng chẳng biết làm gì ngoài cái sự học. Lý nhớ lại: Phải mãi đến năm lên 9, Lý mới được đi học. Vừa đi được vài buổi, bom Mỹ đánh trúng giữa nhà. Lần ấy, cả xóm chết đến 49 người. Nhà Lý may mắn chẳng ai làm sao, song lâm vào cảnh không nhà, phải lên xã miền núi Mường Nọc - Quế Phong khai hoang, dựng lều. Thôi thì chiến tranh, cũng là chuyện thường tình. Đến năm 1968, có chút vốn liếng, cả gia đình mới lại bồng bế nhau về lập nghiệp ở xã Tam Hợp, huyện Quỳ Hợp. Sống như du canh, du cư, buổi đi học, buổi kiếm củi, bữa chăn trâu, rồi đánh xe trâu chở lúa, chở phân thuê... Ấy vậy mà suốt ba cấp học, năm nào cậu học trò Nguyễn Sĩ Lý cũng được công nhận là học sinh giỏi của trường, của huyện, rồi đi thi học sinh giỏi của huyện, của trường... Học xong cấp 3, Lý thi đỗ điểm cao vào khoa Kinh tế - Trường Đại học Lâm nghiệp đóng ở Quảng Ninh. 5 năm đại học, lại 5 năm chàng sinh viên Nguyễn Sĩ Lý luôn đạt danh hiệu sinh viên xuất sắc. Là một trong số ít người được bảo vệ Luận văn trong khóa và đạt điểm xuất sắc, anh được nhà trường phân công vào giảng dạy tại Trường Đại học Tây Nguyên. Chưa đầy 25 tuổi, "ông giáo" Lý đã được tín nhiệm giao trọng trách: Làm chủ nhiệm lớp khóa 4- lớp Lâm nghiệp 4 (Đại học Tây Nguyên); làm trợ lý Kinh tế cho Khoa... Chị Lê Thị Len, vợ anh Lý nhớ lại: "Hồi ấy, tôi (chị Len) học trường Thanh niên dân tộc nội trú cạnh nhà anh Lý. Thấy anh Lý đẹp trai, học giỏi, lại là con nhà gia giáo nhất xã (bố là nhà nho), cả trường tui đứa mô cũng thích, rứa chi mà anh nớ ưng tui...". Anh Lý thì bảo: "Hồi xưa, o ấy đẹp nhất trường". Và thế là bỏ qua biết bao người con gái vẫn thương trộm, nhớ thầm ở vùng mỏ Quảng Ninh, cặp trai tài, gái sắc vẫn quyết lấy nhau, dù kẻ Bắc, người Nam. Bạn bè chị Len kể lại: Không ít người con gái hồi ấy phát ghen với chị Len, vì lấy được anh chồng giảng viên Đại học vừa hiền, vừa đẹp trai, nho nhã... Vài năm đầu những năm 80 của thế kỷ trước, cặp vợ chồng Lý - Len ngập tràn trong hạnh phúc, trong một tương lai rộng mở đến thênh thang. "Ông giáo" Lý đã chuẩn bị cho một ngày đón vợ vào vùng đất Tây Nguyên an cư lạc nghiệp, đã dự tính cho một ngày học lên để làm Giáo sư Đại học, hay Tiến sỹ Lâm nghiệp, để được cống hiến cho Trường, cho ngành Lâm nghiệp nhiều hơn. Vâng, rất có thể, với cương vị ấy từ những năm 1980, cặp vợ chồng Lý - Len đã trở nên thành đạt trên mảnh đất Tây Nguyên mầu mỡ, nếu không có chuyến ra Bắc định mệnh ấy.
Đấy là cuối năm âm lịch Quý Hợi (1983), giảng viên Đại học Nguyễn Sĩ Lý được nhà trường cử đi công tác ở Bộ Lâm nghiệp. Đợt công tác vừa xong, cũng đúng chiều 28 Tết. Được sự nhất trí trước của nhà trường, chiều 28 Tết, Nguyễn Sĩ Lý mới từ Hà Nội về đến nhà để hưởng một cái Tết đoàn tụ. Cùng dịp ấy, người em trai của "ông giáo" Lý đi bộ đội được xuất ngũ, nên nhà ăn tết to lắm. Ông bố quyết định thịt hẳn một con lợn, mừng cái Tết đoàn viên. 8 giờ tối hôm ấy, cả nhà quây quần bên bếp bánh chưng, nào chuyện Bắc, chuyện Nam, trên trời, dưới biển... Vớt bánh xong, ông bố 65 tuổi thương các con, giành phần đi trả nồi cho nhà hàng xóm. Vai khoác nồi, tay cầm đèn pin, ra khỏi nhà một đoạn thì vô tình ông cụ rọi đèn pin phải hai thanh niên đi ngược chiều. Nghĩ có kẻ trêu trọc, hai thanh niên lao vào đánh ông cụ đến văng nồi, rơi cả đèn pin... Với sức vóc của một ông đồ đã gần thất thập, cụ chạy về ngõ gọi con cầu cứu. Ông anh cả là giáo viên vốn người lẻo khẻo rút thanh củi đang cháy giở chạy ra. Từ bé chưa dám đánh nhau với ai bao giờ, song tiện tay Nguyễn Sĩ Lý cũng cầm một con dao vừa chọc tiết lợn chạy ra. Trời tối đen như mực. Một tiếng lựu đạn nổ chát chúa. Đêm đó, cả xóm ồn ào. Sợ rắc rối về sau, gia đình Lý gọi công an xóm đến lập biên bản. Mọi chuyện tưởng rồi cũng qua...
Ai dè, sáng 29 tết, Nguyễn Sĩ Lý bủn rủn vì cái tin: có một thanh niên bị đâm chết trong vụ xô xát...
Chiều 30 Tết, công an huyện mời 4 cha con Nguyễn Sĩ Lý lên với vật chứng: một con dao nhọn thu từ nhà Lý còn dính máu có bản rộng đúng bằng chiều rộng vết đâm; và một chiếc áo của Nguyễn Sĩ Lý còn dính máu. Do gia đình đề nghị nếu bắt xin để sau Tết; vì đây là cái Tết đoàn tụ sau 10 năm, nên đến mồng 6 Tết, cha, anh và em trai Nguyễn Sĩ Lý mới bị bắt. Mồng 8 Tết, vừa từ quê vợ về đến nhà, "ông giáo" Lý mới bị bắt vì nghi can tày đình: giết người!./.


KỲ 2: TÊN TÙ TỬ TẾ

Hai trăm năm trước, nàng Thúy Kiều của cụ Nguyễn Du từng bán mình cứu cha, để lại tấm gương hiếu nghĩa đến mấy trăm năm sau. Thời nay, có anh giảng viên Đại học Nguyễn Sĩ Lý liều mình vào tù... cứu cha, cũng nói lên tấm gương hiếu thảo của người công chức, của nghĩa làm con trong nền giáo dục của xã hội đương đại. Chẳng thế mà 2.000 ngày trong tù, kẻ "tù dài" Nguyễn Sĩ Lý còn cảm hoá được nhiều bạn tù trở thành..."Người tử tế". Thậm chí, kẻ "tù dài" này còn được Giám thị giao viết cả... "Đề tài" nhằm cảm hóa phạm nhân. Anh bảo: Nghề giáo của tôi, và ngành BHXH của anh, nó mang nhiều chất nhân văn lắm. Nó sinh ra là vì con người. Không khác được! Rồi anh ngâm nga một câu trong "Kinh Phật": "Cứu được một người phúc đẳng hà sa; còn hơn xây tòa  tháp 9 tầng...".

Cao Tiến Mùi
Nguyễn Sĩ Lý, vị nguyên giảng viên Đại học Tây Nguyên còn nhớ như in: Vừa từ quê vợ về ăn Tết trở về, anh lao vào ôm ngay lấy đứa con gái đầu lòng bé xíu mà Tết này mới biết mặt, mà nựng, mà hôn. Kể cũng lạ, như có linh tính của tình máu mủ, mới 6 tháng tuổi, mà con bé cứ bấu riết lấy cha. Lúc lực lượng công an ập vào, một anh phải dứt mãi con bé mới rời ra để bập còng số 8 vào tay ông Giáo. Lý kể: Hôm đang ăn Tết bên đằng vợ, tôi biết, nếu về thế nào cũng bị bắt. Thậm chí, có người xui tôi... bỏ trốn! Song tôi nghĩ: Đường đường mình là công chức nhà nước, lại không gây án, sao phải trốn? Song quả thật, khi chiếc còng lạnh ngắt bập vào tay rồi, Lý vẫn không thể lý giải nổi, rằng tại sao lại có người chết? Và tại sao "họ" lại... "nghi" cho mình? Sau này, có lần Lý yêu cầu được giám định vết máu trên dao và trên áo, để chứng minh rằng đó là... tiết lợn. Khốn nỗi, bản rộng của lưỡi dao dính máu thu được ở nhà Lý đúng 2,5cm, khớp in bề rộng vết đâm trên người nạn nhân. Và chẳng hiểu sao kết quả giám định vết máu trên dao và trên áo Lý cũng cho thấy: đó là... máu người (?!). Lý chẳng hiểu tại làm sao, song cũng đành... đuối lý. Tuy vậy, hơn một tháng tạm giữ ở Công an huyện, Lý vẫn một mực kêu oan, kiên quyết không nhận tội. "Nằm" ở công an huyện 1 tháng 10 ngày, mấy cha con được đưa xuống Trại tạm giam Nghi Kim. Vô tình một lần, hai cha con Lý được mời ra nhận quà cùng một lúc. Thấy cha còng rạp, mặt mày hốc hác, giọng nói thều thào không ra hơi, Lý nghĩ: Cha già, tuổi cao, sức yếu, khó mà sống đến ngày được giải oan... Thế là sau 3 tháng tạm giam, Lý đành nhận tội... giết người với điều kiện: "Thả cha tui ra"! Sau khi nhận "tội giết người" một tháng, vẫn không thấy cha được thả, Lý lại "phản cung" trong lần Viện Kiểm sát đưa ra hoàn cung. Thôi thì khỏi phải nói đến những ngày Lý phải nằm trong "phòng giam đặc biệt", vì dù được đối đãi tử tế đến mấy, thì vẫn là "Một ngày tù, nghìn thu ở ngoài". Sau hai tháng "phản cung", vẫn một mực thương người cha đã vất vả vì 5 anh em suốt một đời, một lần nữa Lý lại nhận tội giết người với một tình tiết... y như thật và vẫn với một điều kiện: "Thả cha tui ra". Lần này, Lý được toại nguyện. Sau khi "dựng lại hiện trường", cha Lý, "ông đồ về hưu" 65 tuổi được thả sau mấy tháng tạm giam. "Báo nghĩa ngược" thằng con liều mình cứu cha, "ông đồ già" lại về bán trâu, bán đến thứ tài sản cuối cùng, lọ mọ ngược xuôi hết Vinh đến Hà Nội… tìm đường giải oan cho con. Giữa năm 1985, "ông đồ" vuốt nước mắt bảo con: "Không được đâu, con ạ! Con có tin vào sự thật không?". Lý vẫn cười, an ủi cha: "Cha cứ yên tâm; trời có mắt đấy, cha ạ". Hết sơ thẩm rồi đến phúc thẩm, Toà vẫn y án: kẻ giết người Nguyễn Sĩ Lý lĩnh án 17 năm tù giam!
Ở nhà, cả gia đình ông giảng viên Đại học Nguyễn Sĩ Lý càng lâm vào cảnh khốn cùng: lợn gà, trâu bò, tài sản bán hết. Người anh cả là Nguyễn Sĩ Luân đang dạy cấp 2 trường làng thì được "lệnh": hoặc nghỉ dạy; hoặc đi vùng sâu, vùng xa. Vốn là một thầy giáo yêu nghề, yêu trường, "anh giáo làng" Nguyễn Sĩ Luân tình nguyện đi dạy ở vùng sâu Châu Lộc- Quỳ Hợp từ năm 1983-1990. Người em kế Nguyễn Sĩ Tính nhận giấy báo nhập ngũ trước khi nhận được giấy báo nhập học trường Sư phạm của tỉnh; dự định ra quân sẽ lại thi đại học... Ai dè ra quân đúng ngày anh trai lâm nạn, đành bỏ giở học hành, bị khai trừ Đảng hơn 5 năm vì liên quan đến kẻ... giết người! Cô em gái Nguyễn Thị Thái học xong cấp 3 đúng lúc anh trai "lâm nạn", phải làm hồ sơ "chui" mới được đi học lớp kế toán, ra trường cũng chẳng nơi nào dám nhận... Người vợ xinh đẹp hết mực tảo tần đang làm công nhân ở Nông trường 1/5 cũng bị cô lập, đành xin về nghỉ chế độ khi tuổi chưa đầy bốn mươi...(Sau khi Nguyễn Sĩ Lý được minh oan, tất cả anh, em của anh đều đã được phục hồi, bố trí công tác...).
Lúc ấy, với một hoàn cảnh như vậy, song Nguyễn Sĩ Lý nhớ lại: Dù lúc khổ nhất, bi quan nhất, tôi vẫn tin vào công lý. Có một bài học quý mà Nguyễn Sĩ Lý rút ra cho chính mình, và những người đang "đếm lịch" nói chung, là: kể cả trong tù, cũng cần làm "tù tử tế"... Nghịch lý là sự tử tế đôi khi lại bắt đầu bằng sự không tử tế. Chẳng là hồi mới vào tù, Lý cũng rất... "hận"! Hận người vu oan cho mình; hận cả người không tin mình... Có lúc, Lý đã nghĩ đến... báo thù. Suốt nhiều tháng trời, Lý vạch phương án vượt ngục để... báo thù. Hồi ấy, do được liệt vào hạng "tù dài", nên quản lý trại giam quản rất chặt. Lý biết, không thể nào vượt ngục, nếu không được ra ngoài trại để lao động. Thế là Lý lên kế hoạch "giả vờ tử tế" để được ra ngoài, tìm cơ hội vượt ngục. Sau hàng năm trời "giả vờ tử tế", từ hạng tù mà đàn em coi là hàng "sĩ quan", Nguyễn Sĩ Lý gây được cảm tình và lòng tin của Ban Giám thị, được đưa vào loại “tù tự giác”, đưa sang phụ trách kỹ thuật đội trồng lúa. Lúc này, ở trên cánh đồng của Trại, Lý là người tự do, thậm chí nhiều buổi trưa ngủ luôn ngoài đồng cho... mát! Và những ngày này, Lý đã kịp chuẩn bị cho mình 5kg lương thực phơi khô, 2 chiếc bật lửa, 10 viên đá lửa... sẵn sàng cho những ngày nằm rừng, chờ cơ hội báo thù...
Kết cục của cái ác duy nhất mà bản năng con người Nguyễn Sĩ Lý định gieo, cuối cùng lại trở thành cái thiện. Khi điều kiện vượt ngục chín muồi, Nguyễn Sĩ Lý bừng tỉnh: Mình là công chức, là giáo viên Đại học, đang không có tội, chẳng lẽ lại làm cho có tội? Từ ngày bạn tù tôn lên hàng "sỹ quan", Lý chẳng bắt nạt ai, mà cũng không để cho cảnh tù nhân bắt nạt nhau diễn ra, nên bọn đàn em vừa nể, vừa sợ. "Thương" nhất là ông Phượng quản giáo; ông ấy quá tử tế, mà nếu mình trốn, sợ ông ấy bị... kỷ luật. Duy một lần trong đời Nguyễn Sĩ Lý ăn cắp, lại là ăn cắp... trong tù. Hôm ấy dẫn phạm nhân đi rỡ lạc, ông giáo Lý ăn cắp một nắm lạc nhân, lén giấu cho một người bạn tù đang ốm và bị bắt. Ban Giám thị định "kỷ luật" Lý. Biết chuyện, quản giáo Phượng làm ầm lên: "Anh ấy là giáo viên Đại học, sơ xuất phải vào đây, đừng nghĩ là kẻ cắp". Sau cái đận ấy, Nguyễn Sĩ Lý càng tu tỉnh để trở thành "Người tử tế", bỏ hẳn ý định trốn trại báo thù... Sau, được "đề bạt" tới chức "Trưởng ban thi đua", Nguyễn Sĩ Lý lại là người đứng ra bênh vực kẻ yếu, là người tham mưu cho Ban Giám thị nhiều việc trong công tác xây dựng và ổn định Trại giam. Tham mưu và giúp cho Ban Giám thị lo cho phạm nhân từng tấm chăn, từng bữa ăn..., thời gian làm Trưởng ban Thi đua, Nguyễn Sĩ Lý góp phần xóa tù ốm, chấm dứt tình trạng tù khoẻ bắt nạt tù yếu... Có lần xuống Bệnh xá Trại giam, thấy bệnh nhân ốm nhiều, Lý xin Ban Giám thị cho tù nhân trồng đậu xanh, xay bột cho bệnh nhân ăn, bồi dưỡng sức khỏe. Hồi ấy, mỗi khi tù bệnh cầm cốc bột đậu xanh ăn lại nhắc: "Đậu xanh anh Lý...". Chẳng thế sau này có dịp Lý về thăm lại trại giam, gặp Lý, phạm nhân reo hò chẳng khác gì Tôn Ngộ Không về Hoa Quả Sơn. Cuối năm 1987, Nguyễn Sĩ Lý còn được Ban Giám thị giao viết cả Đề tài về "Quan hệ đồng giới trong trại giam" để giúp quản lý, giáo dục phạm nhân. Song rất "tiếc" (hoặc rất may) là đề tài chưa kịp hoàn thành thì Nguyễn Sĩ Lý được minh oan sau "2.000 ngày oan trái".
Không thể không nhắc đến một chuyện vừa vui, vừa khôi hài: người "giải oan" cho "ông Giáo" Nguyễn Sĩ Lý lại chính là một người bạn tù: Cao Tiến Mùi (mà người viết sẽ đề cập đến trong dịp khác)./.


KỲ 3: NHỮNG NGƯỜI TỬ TẾ...

Chạng vạng tối. Cái nắng như­ đốt của tháng bẩy xứ Nghệ cũng nhạt dần, chỉ còn lại cái nóng thông thốc của những cơn gió Lào. Nguyễn Sĩ Lý trịnh trọng lấy một tờ đơn cất trên bàn thờ xuống đư­a cho tôi, rồi bảo:
Dù rau cháo, khó khăn thật, song cái tôi cần không phải là "tiền", mà là "chế độ"!. Cũng vừa gửi đơn hôm kia, song sợ lạc. Nay nhờ anh trực tiếp chuyển giúp tôi lá đơn này tới ông Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Nghe đâu "ông ấy" cũng... "trông đ­ược"...

Sau 5 năm ngồi tù cứu cha, giữa năm 1988, Nguyễn Sĩ Lý mới đư­ợc người bạn tù tử tế Cao Tiến Mùi giải oan... hộ! Phiên tòa Tái thẩm tuyên: Nguyễn Sĩ Lý vô tội và bồi thư­ờng cho Lý 5 năm tiền l­ương bằng 750 ngàn đồng, cùng 250 ngàn đồng "các khoản khác", tổng cộng vừa tròn... một triệu đồng. Ra tù với hai bàn tay trắng, chư­a kịp có gì đền ơn ân nhân cứu mạng là Cao Tiến Mùi, thì một "ân nhân" nữa lại xuất hiện: th­ông cảm quãng đời oan trái, và cảm phục tấm lòng hiếu nghĩa của Lý, anh Hồ Đình Trị (quê vợ) lại tặng vợ chồng Lý - Len 1000m2 đất. Vay thêm đ­ược một chỉ vàng, hai vợ chồng cất một túp lều ở tạm. Biết chuyện, Ban Giám hiệu Trư­ờng Đại học Tây Nguyên lúc ấy mời Nguyễn Sĩ Lý tiếp tục trở lại giảng dạy với điều kiện: Tòa án phải dẫn Lý vào; và Tòa phải xin lỗi Nhà trư­ờng vì đã xử oan cán bộ của Tr­ường. Tòa án Nhân dân Nghệ Tĩnh (hồi ấy) cũng đồng ý và mời Lý: ngày 15/7/1990 có mặt tại Tòa để Tòa đư­a vào Đại học Tây Nguyên bàn giao và xin lỗi. Khốn nỗi ngày 21/7 Lý mới nhận đ­ược giấy mời (?!). "Cơ hội vàng" tuột mất chỉ vì một tờ giấy đến "muộn" (?!). Cuối năm ấy, Công ty Cao su Phú Riềng cảm động trư­ớc hoàn cảnh của Lý, mời anh vào làm việc tại Công ty. Trong niềm vui tột độ là lại đ­ược làm việc, Lý g­ượng đạp xe đi mời bạn bè dự buổi liên hoan chia tay. Vừa ra đến đư­ờng, giữa trời quang mây tạnh, Nguyễn Sĩ Lý đổ ập xuống: liệt tứ chi! Phải mất đến nửa năm, nhờ sự tài trợ của một tờ Báo ở Hà Nội, nhờ "Bàn tay vàng" của Danh Y Nguyễn Tài Thu và sự giúp đỡ của ng­ười bạn tù Cao Tiến Mùi, sức khỏe Nguyễn Sĩ Lý đã khá lên, song tứ chi thì vẫn "cái liệt một nửa, cái liệt toàn bộ". Lý nhớ lại: Một dạo trong Trại, Lý đư­ợc đi lao động trồng ớt xuất khẩu. Ớt nhiều. Thường ngày sau buổi lao động, mỗi ng­ười lại cầm dăm – bẩy quả ớt vào trại ăn cho... có tý cay. Mọi ngày không sao. Ai dè hôm ấy bị... "phạt": Một ng­ười đi cùng bị ăn 20 quả; Lý bị "ăn" 30 quả. Ngư­ời kia "khôn", nuốt trửng 20 quả ớt, vào trại lại móc ra nên chẳng sao. Lý vốn thật thà, nhai, nuốt 30 quả ớt. Nuốt xong, Lý lên cơn điên dại, và toàn bộ hệ thống ruột non, ruột già, dạ dày... bị "hỏng" từ bấy đến nay: đại, tiểu tiện tự do, trong khi chân tay thì liệt... Anh bảo: Nếu đư­ợc đi giám định, chắc tôi mất sức khỏe khoảng... 100%...
Với một "sức khỏe" như­ vậy; song bên cạnh ngư­ời vợ hiền tần tảo, cặp vợ chồng Lý- Len vẫn gắng g­ượng vượt lên, để "tàn như­ng không phế". Lại một ng­ời bạn thư­ơng cảm, dạy cho cách làm giò chả, cách làm đậu phụ... Với một tay phải liệt 60%, tay trái liệt 40%, chân phải liệt 90%..., Nguyễn Sĩ Lý vẫn mày mò tự sáng chế, thiết kế máy làm giò, máy làm đậu phụ... (mà thực tế là do không có tiền mua). Nay, mỗi ngày vợ chồng nhà Lý- Len cũng "sản xuất" đư­ợc 15 kg đậu phụ, vài ba cân giò, thu lãi dăm sáu chục ngàn, đủ đắp đổi qua ngày và nuôi ba đứa con đi học. Đứa con gái đầu tiên ngày ấy đã tốt nghiệp Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh và đư­ợc giữ lại Trường, song cũng để lại cho ông bố liệt món nợ 30 triệu đồng ăn học "chư­a biết lấy chi mà trả?". Đứa con gái thứ hai năm nay vào lớp 12. "Cậu út" Nguyễn Sĩ V­ượng sinh năm 1991, năm nay vào lớp 9 mà tóc đã bạc trắng như­ c­ước. Nhà đã thoát khỏi diện "hộ nghèo", v­ươn lên thành "hộ trung bình" giữa cái xóm nghèo  xứ Nghệ. Chẳng thế có lần đ­ược hưởng "trợ cấp hộ nghèo", Nguyễn Sĩ Lý cám ơn rồi bảo: Nhiều nhà khác còn cần hơn tôi, hãy dành cho họ... Có lần "trên" định đư­a vào diện "trợ cấp tàn tật hàng tháng", Lý cũng khảng khái không nhận với lý do: "Tôi bị thương tật; chứ không phải tàn tật..."! Lý nói vậy quả cũng không sai; vì anh biết: ở cái mảnh đất xứ Nghệ vốn thiếu mưa thừa bão này, nhiều người còn khó khăn hơn mình. Vả lại, anh bị "tai nạn" trong một chuyến công tác trở về thật, mà không phải bị... tật nguyền!
Chạng vạng tối, Nguyễn Sĩ Lý tay run run trịnh trọng lấy từ bàn thờ tờ đơn "Kính gửi ông Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam" đưa cho tôi rồi dặn: Nhờ anh trực tiếp chuyển đến tận tay Tổng Giám đốc. Nghe đâu "ông ấy" là ngư­ời có thể... "trông chờ" được... Lý bảo: "Tiền, ai cũng cần. Song cái tui cần, là chế độ, là danh dự; danh dự với con cái, với xã hội..."!

Mang "canh cánh" này tâm sự với ông Phạm Đình Nhã, quyền Trưởng phòng Chế độ- Chính sách BHXH Nghệ An với một hy vọng không nhiều. Tôi cứ tư­ởng, những ngư­ời làm công tác chế độ chính sách th­ường khô khan, rập khuôn, máy móc, chỉ biết đến văn bản này, chỉ thị nọ... Tôi đã nhầm. Đấy lại là một ngư­ời đàn ông đầy lòng trắc ẩn, thông thuộc chính sách nh­ư lòng bàn tay, mà trái tim vừa nóng bỏng, vừa nhân ái đến vô cùng. Anh tâm sự: Làm công tác BHXH là vì con ngư­ời, mà không phải vì văn bản, chỉ thị (tất nhiên, nó cũng vì con ng­ười, nên phải tuân theo). Nguyễn Sĩ Lý là con ngư­ời vừa có tri thức, đạo đức; vừa có địa vị trong xã hội, có một t­ương lai sán lạn (ngày x­ưa); song vì một oan khuất mà cuộc đời của anh, t­ương lai của anh bị dập tắt. Nên ngày nay, bù đắp lại phần nào mất mát của Lý, không phải chỉ biết"đổ tại" cơ quan này, cơ quan khác; mà trách nhiệm là của cả xã hội. Ông Nhã cho biết: Khi đọc báo, biết chuyện về Nguyễn Sĩ Lý, tất cả mọi ng­ười đang công tác ở BHXH Nghệ An đều rất thương cảm, và rất tiếc cho hoàn cảnh của Lý song ch­ưa biết làm thế nào, vì đây là trường hợp đặt biệt, vư­ợt ra khỏi khả năng của BHXH một tỉnh. Nói là đặc biệt; vì các đối t­ượng xin hư­ởng chế độ thì nhiều, không thể "phá rào". Song những người có hoàn cảnh đặc biệt như­ Lý thì... chỉ có một! Rồi anh ­ước ao: Sắp tới, BHXH triển khai thực hiện BHXH tự nguyện ở diện rộng. Đến lúc ấy, Nguyễn Sĩ Lý đ­ương nhiên đư­ợc tham gia BHXH tự nguyện, nếu anh muốn. Song nếu nh­ư thế, thì cũng chẳng có gì để gọi là "đặc biệt". "Giá như­" ở trư­ờng hợp "đặc biệt" này, BHXH Việt Nam "đi trư­ớc một bư­ớc" bằng cách "đặc cách" cho Nguyễn Sĩ Lý đóng tiếp BHXH 8 năm nữa thì anh sẽ đủ 15 năm tham gia BHXH và đ­ược nghỉ h­ưu theo điều 26, Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ theo nguyện vọng của anh; hoặc cho anh đ­ược "đóng bù" BHXH 8 năm về trư­ớc, để đ­ược h­ưởng ngay chế độ hưu trí. (Khi ngư­ời viết phản ánh lại giả thiết này với Nguyễn Sĩ Lý, anh c­ười: Tôi muốn tham gia BHXH tiếp tục là để "khôi phục" lại "tư­ cách pháp nhân" của mình. Còn  tuy mới 51 tuổi, song với bệnh tật thế này, cũng khó mà sống được... 8 năm nữa để hư­ởng chế độ). Thực tế, 5 năm trong tù, Nguyễn Sĩ Lý đư­ợc Tòa án Nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh (hồi ấy) trả l­ương; đư­ơng nhiên thời gian đi tù này anh cũng được tính là "tham gia BHXH liên tục" sau 2 năm công tác và tham gia BHXH ở trư­ờng Đại học Tây Nguyên. Nh­ư vậy, sau 7 năm đã tham gia BHXH, cùng với việc Nguyễn Sĩ Lý bị "tai nạn" (tù oan) trên đường đi công tác trở về, phải coi "sự kiện Nguyễn Sĩ Lý" là bị "tai nạn lao động" mà không phải là "tàn tật"! Và chí ít, anh cũng đáng được hư­ởng chế độ của một ngư­ời viên chức bị "tai nạn lao động"!
Một lần xin nhắc lại lời nguyện cầu của Nguyễn Sĩ Lý giữa cái sân trị nóng như rang của mùa hạ xứ Nghệ: "Nguyện cầu trời xanh "thỉnh" với "cấp trên" cho tui được... hư­ởng chế độ; cho tui đ­ược khôi phục bốn chữ thiêng liêng: Công chức Nhà nước...". Và xin mượn lời của ông quyền Trư­ởng phòng Chế độ chính sách BHXH Nghệ An để làm lời kết:
"Làm chính sách, mình phải lấy mình làm đối tư­ợng, mà không thể lấy đối tư­ợng làm mình. Làm chính sách là phải có tâm. Tránh những cái sai; song nhiều lúc phải đi tìm cái đúng, cái có lợi cho đối t­ượng để vận dụng, không để đối tư­ợng thiệt thòi"./.
                                                                                                                                        T.N

Thứ Sáu, 1 tháng 5, 2015

 “ÔNG "LIỆT SỸ" 
ĐI TÌM ĐỒNG ĐỘI...!

Một ngôi nhà nhỏ nằm trong một ngõ nhỏ sát hai trường học; “diện tích mặt sàn” của ngôi nhà vẻn vẹn 12mét vuông, còn “mặt tiền” chỉ có …2,3m. Phía trước, một cái quán nhỏ liêu xiêu chênh vênh trên vỉa hè, lèo tèo dăm chai nước, vài hộp kẹo, một hộp thuốc lá và một ấm trà…Có người bảo, ở cái quận Hà Đông (Hà Nội), có hai quán trà pha ngon nhất, thì quán của “ông Liệt sĩ” ấy là… số 1! Trà ông pha thoạt trông thì nhạt mà sóng sánh, “cắm được tăm”; uống vừa thơm, đậm, ngọt, chát…; ngụm trà chảy vào đến đâu trong cơ thể, người uống cảm nhận được vị ngon đến đấy…
  Và, một điều quan trọng, là một ấm trà nhỏ, trong một quán trà cũng nhỏ, lại đang làm nên một  chuyện lớn lao cho đời!

1.     Mười hai ngàn ngày đi “Xin làm người còn sống”...
Ông chủ quán trà “Đệ nhất Hà Đông” ấy tên là Phạm Văn Nam, sinh năm 1953. Với “gốc gác” là con trai cả của một thương binh miền Nam tập kết, lúc ấy, anh đủ cơ hội để xin không gia nhập quân đội hoặc vào mặt trận; song anh bảo: “Đất nước cần, thì mình đi thôi…” Và thế là năm 1973, giữa lúc chiến trường miền Nam đang vào kỳ ác liệt nhất, anh rời Công ty Xây lắp Điện lực Hà Tây (cũ) lên đường ra trận, đúng tuổi 20.
18 năm trong quân ngũ; 6 năm trực tiếp tham gia 2 mặt trận là giải phóng Miền Nam và mặt trận biên giới Tây Nam, cũng ngần ấy năm làm lính trinh sát, nên Phạm Văn Nam kịp có mặt ở gần khắp các chiến trường, từ Đường 9, Rừng Sác…, đến mặt trận Lào, Campuchia… Nhiều lần bị thương, song lần bị thương mang tính “quyết định” nhất là năm 1978 ở mặt trận đường 56,  đánh nhau với lính PônPôt. Lần ấy bị hai viên đạn bắn toác đỉnh đầu, và một viên bắn nát đầu gối trái, chiến sĩ Phạm Văn Nam đã ngừng thở. Đồng đội đã kịp gói anh vào túi ni lông, kèm theo là một vỏ đạn ghi tên tuổi, quê quán, đưa về tuyến sau… Ai dè sau một đêm “gối đất, nằm sương”, Phạm Văn Nam tỉnh lại; một đồng đội giúp anh thoát khỏi chiếc túi ni lông đã bị buộc chặt, băng bó vết thương cho anh. Không ngờ, người đồng đội ấy hy sinh ngay sau đó; còn Nam luồn vào rừng, sau nhập vào một đơn vị khác… Lúc thu dọn chiến trường, ai nấy ngậm ngùi chẳng hiểu xác Nam lạc đâu, mà chỉ thấy mỗi cái túi ni lông dính đầy máu và mảnh giấy ghi rõ tên tuổi, quê quán… bên trong một chiếc vỏ đạn đã đập bẹp đầu… Năm 1979, bà con Khối 6, rồi cán bộ, nhân dân phường Quang Trung, Thị xã Hà Đông (lúc bấy giờ) đã long trọng tổ chức Lễ Truy điệu cho Liệt sĩ Phạm Văn Nam trong niềm tiếc thương vô hạn. Đùng một cái, năm 1990, anh được Trại an dưỡng Thuận Thành(Hà Bắc) đưa về nhà giữa lúc nửa đêm. Người mẹ già khóc lặng, chắp tay vái: “Con sống khôn chết thiêng…”! Anh chỉ kịp bảo: “Mẹ ơi, con còn sống…” rồi ngã vật vào lòng mẹ. Sau hỏi anh rằng suốt 13 năm liền sao không tin tức để gia đình biết mình còn sống? “Ông Liệt sĩ” Phạm Văn Nam hỷ hả: thì suốt 13 năm mình liệt nửa người; vết thương trên đầu làm mình lắm lúc bị thần kinh. Nghĩ bụng: thà cứ để gia đình coi mình là liệt sĩ, còn hơn trông thấy mình như thế này. Sau, nghĩ mẹ già đã gần đất xa trời, thương nhớ mẹ, đành phải… về thôi…
Suôt hai năm trời, người dân Hà Đông không cầm được nước mắt khi thấy lúc thì “Bà mẹ liêt sĩ”, lúc thì “Ông bố Liệt sĩ” vốn cũng là Thương binh chống Pháp còng lưng dìu “con Liệt sĩ” tập đi trong cái phố nhỏ Bế Văn Đàn. Sau hai năm “chập chững” trên đôi tay cha, mẹ già, “Liệt sĩ” Phạm Văn Nam biết tự đi trên đôi nạng gỗ thì người bố mất, để lại trong anh bao trăn trở, bộn bề…
Năm 1993, “bước đi đầu tiên” của Phạm Văn Nam trên đôi nạng gỗ, là lên Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh Hà Tây (cũ) trả lại Giấy Báo tử, trả lại Bằng Tổ quốc ghi công, và chỉ có một nguyện vọng duy nhất: Xin cái giấy xác nhận là mình còn sống!
Và cho đến tận bây giờ, sau 12 ngàn ngày báo tử, và sau 18 năm đi xin, Phạm Văn Nam vẫn chưa xin được cái giấy ấy. Và cũng chỉ vì thiếu cái giấy thiêng liêng ấy, mà cho đến nay, ở cái tuổi 60, Phạm Văn Nam vẫn chưa được hưởng chế độ gì, vì liệt sĩ chẳng phải, thương binh cũng không(?!). Hôm nhóm phóng viên đến thăm nhà, ngoài tài sản quý giá nhất là một cái ti vi màn hình mỏng do bạn chiến đấu tặng, anh chỉ cho xem hai thứ mà anh cho rằng quý giá hơn cả: đó là một tủ hồ sơ liệt sĩ, và một bọc thuốc to bằng cái giỏ ấm. Anh bảo: một ngày không có thuốc là chết! Và thật tùi ngùi: cả đống thuốc ấy đều được chắt từ những chén nước chè sóng sánh “Đệ nhất Hà Đông” kia…

2.    “Liệt sĩ Nam” đi… tìm đồng đội.
Năm 1973, Phạm Văn Nam lên đường vào mặt trận giữa lúc chiến trường miền Nam trong thời kỳ ác liệt nhất. Trong khu phố lần ấy, lên đường với Nam có đến vài chục người. Tất cả đều được “phiên” vào một đơn vị, là Trung đoàn 141, Sư đoàn 7, Quân đoàn 4. Lần nào trước khi ra trận, mấy anh em cũng kịp tâm sự, dặn dò nhau: “Sau, nếu thằng nào còn sống, thì phải đi tìm thằng đã mất, để giao cho mẹ…”. Suốt bao năm đau đáu lời nguyền với đồng đội; song phần do liệt nửa người, phần do đời sống quá khó khăn, Phạm Văn Nam cũng chỉ biết khắc khoải với lời nguyền.
Cho đến một lần vào năm 1993, Phạm Văn Nam đi dự đám tang một người đồng đội dưới Quảng Ninh. Tình cờ, Nam gặp hai mẹ con đang khóc ngất vì vừa đi tìm mộ chồng, mộ cha trong Bình Phước mà không thấy. Gạn hỏi, hóa ra người Liệt sĩ mà hai mẹ con đang tìm chính là đồng đội của anh, tên  là Nguyễn Đình Hòa, hy sinh năm 1975 tại mặt trận Bình Phước mà do chính tay anh chôn cất. Vài ngày sau, “Liệt sĩ Nam” cùng vợ con người đồng đội trở lại Bình Phước, nhanh chóng tìm chính xác mộ liệt sĩ Nguyễn Đình Hòa. Anh Nam kể lại: là lính trinh sát, chẳng mấy ai vào trận mà lại mang theo giấy bút; đặc biệt là chẳng đào đâu ra lọ Penixilin, nên anh có sáng kiến: nếu có giấy bút thì ghi tên tuổi, quê quán lên mảnh giấy, rồi bỏ vào vỏ đạn, cắn bẹp đầu rồi để vào miệng liệt sĩ. Không có giấy bút thì bỏ vật gì đó vào vỏ đạn rồi về ghi đặc điểm vào sổ. Bằng cách ấy đã giúp anh khá hiệu quả trong công việc tìm mộ sau này. Và cũng từ cái lần đi tìm mộ Liệt sĩ hết sức tình cờ ấy, “nghiệp” tìm mộ gần như thấm vào máu “Liệt sĩ Nam”. Cho đến bấy giờ, mỗi khi trái nắng trở trời, hai vết thương trên đỉnh đầu lại hành hạ, làm anh nhiều lúc giở điên, giở khùng… Những lúc tỉnh táo, không hiểu sao, những hình ảnh cũ ngoài mặt trận cứ hiện dần lên hàng ngày, rõ mồn một... Có khi đang ngồi bán nước trà, bất chợt nhìn thấy một hiện tượng nào đấy, có thể như một màu áo lính…, anh lại nhớ ra tên tuổi, quê quán, phần mộ của một người đồng đội nào đấy…. Những lúc như thế, anh bỏ mặc khách, quay vào nhà ngồi vẽ chi tiết phần mộ, tên tuổi, quê quán… từng người. Ngồi sau quán nước từ Hà đông, anh có thể vẽ lại từng lối mòn, hốc đá; ghi lại từng đặc điểm dưới mộ của người liệt sĩ ở Miền Nam… Trong một trang vở, anh viết: “Nguyễn Danh Tuấn-1947; gói bằng tấm tôn, 2 dầu đóng 2 cọc sắt 3 cạnh”… Sau này, gia đình liệt sĩ Nguyễn Danh Tuấn vào bốc mộ anh, thấy địa điểm, đặc điểm y hệt như vậy, không khỏi ngỡ ngàng. Vì trong những năm sống trong hai cuộc chiến, “Liệt sĩ Nam” đã từng đánh khắp các mặt trận ở Miền Nam, rồi Lào, Campuchia…, tự tay chôn cất hàng trăm Liệt sĩ, chứ không phải chỉ vài người. Một người có uy tín trong lĩnh vực tâm thần học đặt giả thiết: Có thể, hai vết thương trên đầu ảnh hưởng đến não bộ, và chúng làm kích thích khu thần kinh liên quan đến trí nhớ của anh. Chẳng biết nhận định của nhà khoa học nọ có đúng hay không; chỉ thấy mỗi lần nhớ ra một ngôi mộ, một khu mộ, là “Liệt sĩ Nam” lại tìm cách… lên đường. Anh bảo: nhớ ra rồi, không đi tìm họ về, cứ như ngồi trên đống lửa, không chịu được. Cứ sau mỗi lần như thế, anh lại liên hệ với thân nhân liệt sĩ, rồi cùng gia đình thân nhân trở lại chiến trường với đủ loại phương tiện: ô tô, máy bay, xe lửa…, rồi lại cùng thân nhân leo đèo, vượt thác… 18 năm nay, “Liệt sĩ Nam” trở lại chiến trường xưa hàng trăm chuyến, năm nhiều tới 16 chuyến, năm ít nhất cũng 5-7 chuyến; mỗi lần đi cũng mất dăm bữa, nửa tháng; có lần dài nhất tới 45 ngày. Cứ dạo nào thấy vắng ông “Liệt sĩ Nam” đằng sau quán trà, dân phố Quang Trung, rồi dân ngõ Bế Văn Đàn lại bảo nhau: “Ông Liệt sĩ lại đi miền Nam rồi”, để đến lúc gặp lại bên quán nước trà, họ lại hỏi anh: “Thế nào, kỳ này được… mấy cái?”; để rồi anh lại cười khì: “Ừ, được có… dăm cái”! Lần tìm được nhiều nhất phải kể đến năm 2007, anh lăn lội lên tận Kon Tum, đưa về hài cốt 16 liệt sĩ của riêng xã Biên Giang (Hà Đông, Hà Nội)… Cứ như “Con ong tìm… mộ” như thế, 18 năm nay, “Ông Liệt sĩ” Phạm Văn Nam đã trực tiếp bốc, rửa…, rồi “mang về cho mẹ” đồng đội tới 242 phần mộ liệt sĩ. Đấy là chưa kể nhiều phần mộ liệt sĩ anh chỉ đường, chỉ đặc điểm cho thân nhân tự bốc. Khắp miền Nam biết anh, vì anh đến đấy tìm mộ; khắp Miền Bắc biết anh, vì phần mộ anh tìm thấy giúp là người con của những thân nhân ở khắp miền Bắc. Nhiều liệt sĩ anh không hề biết, thân nhân đến nhờ, anh cũng nhận lời và tìm hộ rất hiệu quả. Người biếu nải chuối, cân gạo thì anh nhận; tuyệt nhiên không lấy của gia đình nào dù nào một xu. Có gia đình trên đường trở về thì hết tiền; anh đã bán bộ quân phục mang theo để đỡ cho gia đình thân nhân Liệt sĩ.
Khi hỏi về nguồn kinh phí cho những chuyến đi, anh Phạm Văn Nam chỉ tay vào cái ấm nước trà, rồi lại chỉ tay về phía vợ: “Tất cả ở đấy”! Từ năm 1990, người vợ thấy anh chồng “Liệt sĩ” đau ốm quanh năm, đành xin nghỉ “một cục”, ở nhà chăm sóc chồng và phụ đỡ quán nước. Chẳng dám ăn, chẳng dám tiêu, tần tảo chắt chiu từ cái quán nước được đồng nào lại dồn hết cho chồng “vào Miền Nam”; 18 năm, chị không một lời than vãn. Có lần anh lên đường mà không có tiền, chị tất tả đi vay, đi mượn bên nội, bên ngoại, cho anh lấy tiền làm lộ phí. Chị bảo: “Thấy anh ấy vui là tôi vui rồi…”. Vài năm gần đây nhiều người biết chuyện, gửi biếu anh dăm chục, một trăm qua đường bưu điện. Thật cảm động khi đọc lá thư của bà Lê Minh Tâm, 80 tuổi, nhà ở quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh: “Mẹ vừa được một triệu đồng lương hưu, mẹ chia cho 3 người: con 300 ngàn, và…”! Hàng trăm, hàng trăm là thư như thế khắp mọi miền đất nước gửi về, biết ơn, cảm động, sẻ chia… Có điều, họ chỉ biết đến anh như một người thương binh đi tìm mộ đồng đội, mà ít ai biết rằng: anh cũng vẫn đang là một… Liệt sĩ (?!)…
Sau 18 năm chống nạng lên xuống đi xin cái giấy “Xác nhận còn sống” mà chưa được; bây giờ anh im lặng! Anh động viên vợ con: “Bạn bè tôi còn nằm lại chiến trường nhiều lắm; tôi còn được sống thế này đã là… quý lắm rồi!”…

Vĩ thanh: Có lần, một người bố của đồng đội tìm đến anh để cảm ơn. Chưa kịp xong chào hỏi, ông cụ đã  quỳ xuống mà “Lạy quán nước trà, lạy anh…”, vì nhờ có quán nước trà,  nhờ có anh mà con trai  của cụ đã được trở về với  Đất Mẹ./….
                                                                                        (Báo Tiền phong- 27/4/2001)

                                                                                             T.N


NGÃ BA ĐỒNG LỘC, 
"TÔI KỂ CHUYỆN NGÀY XƯA"...

Lúc ở nhà anh Ninh về đã 11 giờ đêm. Qua nghĩa trang10 cô, thấy trăng sáng vằng vặc. Hai tôi lại lên nghĩa trang ngồi, ngầm nghĩ. Tôi lầm rầm khấn: 30 năm trước, các chị chỉ khát khao một đêm trăng thế này được đi với người yêu mà chưa được. Nay, chúng em đến với các chị giữa một đêm trăng tuyệt đẹp, với mong rằng các chị bớt phần lạnh lẽo. Ông Chủ tịch xã bảo: chưa có đoàn phóng viên nào ngủ lại ở Ngã ba Đồng Lộc, và cũng chưa có ai lên nghĩa trang 10 chị vào nửa đêm. Về đến nhà anh Chủ tịch Hội nông dân đã gần 12 giờ đêm. Nhà gần ngay khu nghĩa trang 10 chị. Có mỗi chiếc quạt điện, đã nhường cho ông cụ thân sinh anh Chủ tịch Hội. Nóng quá, hai tôi mắc màn ra hè ngủ. Tôi không biết mặt chị Tần, nhưng đã mấy lần xem phim “Ngã ba Đồng Lộc” có ca sĩ Thúy Hường đóng vai chị. Tôi vốn nhát bóng đêm. Cứ nhắm mắt vào là thấy chị Tần (có khuôn mặt của ca sĩ Thúy Hường) đứng ngoài sân, tóc dài, mặt bầu, mắt đen nhìn tôi đau đáu, trách móc. Tôi đâm sợ, bèn lay anh bạn đã ngủ say dậy đổi chỗ, tôi nằm vào trong mà vẫn không dám nhắm mắt.

1. Chuyện về mười đóa sim rừng.

Đến Can Lộc, trời đã chạng vạng chiều. Ông Chính, trưởng phòng VHTT huyện khuyên chúng tôi: dưới Đồng Lộc, từ điện nước đến chỗ ngủ nghỉ đều rất khó khăn. Các anh nên nghỉ lại nhà khách huyện ủy cho đàng hoàng, sáng mai ta xuống! Anh bạn cùng đi với tôi thì bảo: Chúng tôi muốn ngủ một đêm ở đúng Ngã ba Đồng Lộc! Ông Trưởng phòng vốn rất nặng máu nghệ sĩ chắp tay bái bái như sư phụ: Tôi hiểu, tôi hiểu. Đây là lần đầu tiên tôi đưa khách xuống Đồng Lộc vào lúc chập tối...bái phục. Bái phục.
            Vù một lèo hết 30 km đường nhựa láng bóng, về đến Đồng Lộc đã thấy đủ mặt dàn lãnh đạo xã đang lim dim ngồi...chờ. Vị Chủ tịch xã còn trẻ, mặt đen cháy như Bao Công phân bua: Anh Chính vừa điện xuống nói các anh về, chúng tôi đến ngay. Hơn nữa, chúng tôi chờ cuộc gặp này từ lâu. Tức quá. Tức quá. "Sao chúng tôi đến, Chủ tịch lại bảo “tức” ?- Xin mời các anh xuống dưới dân, kẻo chúng tôi nói sợ các nhà báo không tin...
            Nhà “dân” đầu tiên mà chúng tôi đến là anh Nguyễn Thế Ninh, 60 tuổi, ở xã bên cạnh. Anh nguyên là Đại đội trưởng Đại đội 552, chỉ huy trực tiếp tiểu đội 4- Tiểu đội có 10 cô Thanh niên xung phong hy sinh ngày 24 tháng 7 năm 1968. Vóc dáng gầy gò, khuôn măt u uất, song anh trẻ hơn so với cái tuổi 60. 9 giờ đêm, anh vẫn cởi trần, đánh vật với đống lúa cao ngất ngưởng ngoài sân. Một chiếc bàn thờ giữa nhà chăng đầy câu đối, hương khói ngan ngát. Anh Ninh bảo, bà cụ thân sinh ra anh vừa mất được mấy mươi ngày. Lúc thắp hương bái khấn vong linh cụ, tôi giật mình, trông ảnh cụ sao thấy...quen quen. Hóa ra - anh Ninh cho biết - đây chính là người đã đóng cảnh cụ già đi...chơi lang thang giữa ngổn ngang bom mìn trong phim “Ngã ba Đồng Lộc” của Đạo diễn Lưu Trọng Ninh mà tôi đã mấy lần xem. Anh Ninh tham gia vào lực lượng Thanh niên xung phong từ tháng7 năm 1965, xuất phát từ Bí thư huyện đoàn Xuân Lộc. Chỉ huy một đại đội gồm 8 tiểu đội, toàn là nữ, song anh cũng chưa giám ngỏ lời yêu ai, chỉ thấy thương các cô vô cùng. Anh kể; cho tới bây giờ, hình ảnh 10 cô gái tiểu đội 4 đã hy sinh vẫn hiện lên trong tôi rõ mồn một, như ngày hôm qua, làm nhiều năm tôi bị ám ảnh mà không nghĩ đến chuyện lấy vợ, Mãi đến năm 1975, sau khi đại đội TNXP giải tán, tôi mới cưới một cô chiến sĩ cùng đại đội, lúc đã gần ở tuổi 40. Yêu thì chưa, song hồi ấy, tôi mến nhất cô Hường ở tiểu đội 4. Hường là người thị xã Hà Tĩnh, nhỏ nhắn, trẻ nhất tiểu đội, có mái tóc dài đến hông và nước da trắng như trứng bóc. Lần nào gặp tôi Hường cũng hỏi: sau này hết chiến tranh, liệu chúng em có lấy được chồng không anh? Tôi lại phải động viên: các cô cứ tích cực, nhiệm vụ bây giờ là thông đường, thông xe...sau này giải phóng, tôi sẽ giới thiệu...giúp. Cuộc chiến hồi ấy cực kỳ ác liệt. Mỗi ngày có khoảng 30 trận bom ném xuống Đồng Lộc, còn bom thì không đếm xuể, song  cả 10 cô đều rất tích cực. Lúc nhàn rỗi , hết bom, thông đường, các cô lại hát hò, nuôi gà, nuôi lợn, dạy nhau học văn hóa...lúc có bom, tắc đường, chỉ một tiếng còi, các cô đã có mặt ngay ở hiện trường, phá bom, san đường...10 cô hy sinh thì 8 cô chưa một lần yêu. Mới có cô Tần (tiểu đội trưởng) có người yêu tên là Hồng ở xã bên cạnh, đi bộ đội trước khi Tần vào TNXP; và cô Cúc, nhà ở huyện Hương Sơn, mới lấy chồng song cũng gia nhập TNXP. Trẻ trung, nhí nhảnh nhất vẫn là cô Hường, cô hát suốt ngày. Hết bài “Chào em cô gái Lam Hồng” lại đến bài “Ngày mai em vừa tròn 20 tuổi...”. Buổi chiều 24/ 7/1968 có anh lính lái xe ủi tặng Hường một bó hoa toàn sim rừng tím. Hường bỏ xẻng, chạy ngay lên nóc hầm đang đào giở cười khanh khách: Hoa này là anh ấy tặng cho cả tiểu đội ta, không chỉ tặng cho riêng em, nên các chị đừng...ghen nhé. Vừa nói dứt lời, một tiếng máy bay rít, một trái bom lao xuống, và...Lúc chúng tôi bới được Hường lên, Hường vẫn tươi rói, vẫn cười, và bó hoa sim rừng vẫn chặt trong tay. Hường chết lúc chưa tròn 19 tuổi.
            Còn cô Tần, không phải nhiều tuổi nhất trong tiểu đội, song là người kiên nghị, đứng đắn nhất, nên được bầu làm Tiểu đội trưởng. Tần người cao, da ngăm ngăm, có mái tóc dài tới ngang kheo. Chiều hôm ấy tiểu đội 4 được giao nhiệm vụ đi đào hầm tránh bom cho đơn vị. Hôm ấy, tiểu đội đi sớm hơn mọi khi. Không hiểu tại sao, Tần quay lại nói với tôi: “Chiều nay đi sớm thế này, cũng là chiều đi cuối cùng đấy anh Ninh ạ”.Tôi động viên : các cô cứ yên tâm ra đi, cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Thương nhất cô Tần lúc ra đi vẫn còn đang hiểu lầm người yêu mà chưa giải tỏa được. Chả là anh Hồng (người yêu chị Tần) lúc đó đang ở chiến trường B. Vì sợ mình đi lỡ không về, anh Hồng viết thư khuyên Tần đi lấy chồng; Tần giận, cũng viết thư cho anh Hồng dọa... cắt, hai người hiểu lầm nhau. Cũng chính vì vậy mà mãi hàng chục năm sau anh Hồng không lấy vợ. Mãi sau này, chính bố đẻ chị Tần thúc ép, đi hỏi vợ cho anh Hồng, anh mới chịu lấy, song lúc nào cũng coi Tần là vợ cả. Bố mẹ của 10 chị đều đã mất. Đúng chỉ có bố chị Tần còn sống, năm nay đã 83 tuổi. Anh Hồng vẫn đi lại, chăm sóc ông cụ, coi cụ là bố vợ. Còn ông cụ thỉnh thoảng vẫn chống gậy qua thăm bố con anh Hồng, như thăm con rể, thăm cháu...

            2. Chuyện về đoàn làm phim

           
Cùng anh Nguyễn Thế Ninh(1998).
Nhìn căn nhà còn ướt mạch vữa, biết thừa rằng vừa mới xây, anh bạn cùng đi vẫn buột một câu, nửa như khen, nửa như hỏi: Hình như anh làm ăn khá, mới xây ngôi nhà đẹp quá? Anh Ninh rầu rầu: Khổ quá, khá giả gì đâu. Tôi hưởng mất sức từ năm 1983; năm 1994-1995 bị cắt mất sức do ngành LĐ-TBXH tỉnh tính nhầm. Mãi tới năm 1995 mới được nhận chế độ thương binh, 2 người làm, 6-7 người ăn, nói sao đến dư giả.
         Cuối năm 1996, đoàn làm phim “Ngã ba Đồng Lộc”  về gặp tôi. Đầu tiên các anh ấy xin ý kiến tôi về kịch bản. Tôi đề nghị các anh ấy sửa nhiều chi tiết không có thật trong kịch bản. Song một anh trong Đoàn cho biết: Kịch bản là pháp lệnh, không ai được sửa, tôi đành thôi.(Đến cái ngày mất của 10 chị là ngày 24/7, trong kịch bản và trên phim lại nói 26/7, tôi bảo sửa lại cũng không được thì... thôi rồi còn gì.) Sau, đoàn quyết định mượn nhà tôi làm nơi ở và làm phim trường. Tôi đã phải dỡ nhà cho tan hoang để làm cảnh quay. Các anh ấy bảo, cứ dỡ đi, sau này đoàn sẽ giúp dăm bảy triệu mà làm ngôi nhà mới. Suốt hai tháng trời, vợ chồng, con cái xoay trần phục vụ đoàn làm phim, từ nấu cơm, đi chợ, đào hầm, vận chuyển hàng hóa, trông nom đồ đạc... Ruộng vườn bỏ bê, lợn gà bán hết, con cái nghỉ học... tất cả dành cho đoàn làm phim. Riêng tiền công mà đoàn phải thanh toán trả gia đình là 1,7 triệu, song đến lúc đoàn làm phim đi, mới trả được 1,2 triệu. Khi tôi đòi gay gắt, các anh mới gửi huyện trả thêm 500.000đ, nay vẫn còn thiếu 100.000đ, nói chi đến chuyện “giúp 5-7 triệu làm ngôi nhà mới”. Đoàn làm phim đi, để lại ngôi nhà tan hoang quá, tôi đành vay mượn xây lại ngôi này cho vợ con khỏi cằn nhằn. Mới xong phần “mộc”, nay đã nợ 8 triệu, chưa biết lấy gì mà trả. Anh Ninh bảo, lúc thấy đoàn về đặt vấn đề làm phim “Ngã ba Đồng Lộc”, cả xã, cả huyện mừng, vì cứ nghĩ, đây cũng là cuốn sử để lại cho con cháu sau này. Vì thế, mọi người đâu có đòi hỏi gì? 30 năm trước, người dân Đồng Lộc dỡ cả mái nhà cuối cùng lót nhà cho xe đi, sẵn sàng hy sinh đến giọt máu cuối cùng để thông xe, nào ai có nghĩ đến “hợp đông” hay “kinh phí”? Nay cũng vậy, người dân Đồng Lộc sẵn sàng giúp đỡ đoàn làm phim, để đoàn “làm giúp” Đồng Lộc một cuốn sử bằng hình mà không hề đòi hỏi. Song, đã hứa với người Đồng Lộc là phải làm, nói dối là không nên, nhất là khi nói dối ở Ngã ba Đồng Lộc. Mà lời nói dối ấy đâu có chỉ dành riêng cho gia đình người Đại đội trưởng C4 nổi tiếng?.Sáng hôm sau, khi làm việc với UBND xã Đồng Lộc, vị Chủ tịch xã cho biết: đoàn làm phim còn nợ UBND xã 700.000đ, nay vẫn chưa trả. Món tiền thì nhỏ, cái tiếng thì lớn. Hàng trăm người được xã huy động đào hầm, làm cỏ, vận tải... với lời hứa 10.000đ/công(!). Song chỉ một số người được trả 5.000đ/công (?), còn 5.000đ thì trừ vào... bát mì tôm và quả trứng vịt luộc mà đoàn đã mời ăn trưa. Đến cái kẻng của UBND xã vốn là vỏ một quả bom, đoàn mượn làm đạo cụ quay phim. Quay song, “đạo cụ” này được vần xuống...mương, để rồi hôm sau lại phải huy động dân quân ra... vớt lên. Giáo viên, học sinh trường cấp 2-3 Đồng Lộc cũng cùng chung cảnh ngộ như vậy. Với khẩu hiệu: tất cả vì bộ phim Ngã ba Đồng Lộc, trường đã động viên 32 học sinh khối 10, khối 12, tham gia đóng các vai, huy động hàng trăm lượt học sinh nghỉ học để đi đào hầm, san lấp, làm cỏ... để rồi cuối cùng chỉ có 32 học sinh nữ được nhận 5.000đ/ngày, còn 5.000đ cũng trừ vào... bát mì tôm và quả trứng gà giống như phụ huynh của chúng. Hiện nay đoàn vẫn nợ trường trên một triệu đồng chưa thấy trả. Các thầy cô giáo phải dạy bù 50 tiết học cho các em tham gia đóng phim, đi lao động... với lời hứa sẽ... “bồi dưỡng”, song nay vẫn chưa có thầy cô nào được “bồi dưỡng” tí gì?
           Lúc đoàn làm phim về, dân xã trong làng, trong huyện mừng bao nhiêu,thì lúc đoàn đi lại buồn bấy nhiêu.
            Kể mãi về đoàn làm phim, biết hai vị nhà báo gầy tom đã ngán, ông Chủ tịch Hội Đồng nhân xã cao to như hộ pháp bèn làm một con tính vui: Đồng Lộc có 2230 ha đất tự nhiên, thì hai năm 1967-1968 chịu tới 42.994 quả bom và tên lửa các loại. Bình quân mỗi ha được “bón” 19 quả. Nếu chia cho 3000 dân lúc đó, thì mỗi đầu người phải “gánh” 14 quả. Riêng mật độ số bom ném xuống Đồng Lộc bằng 9,3 lần mật độ ném xuống toàn tỉnh Hà Tĩnh. Với 403 người chết, 3768 lượt nhà dân bị cháy, Đồng Lộc lúc ấy đã hoàn toàn biến thành xã “trắng”.
             Sau 30 năm, dấu vết của chiến tranh nay chỉ còn đọng lại trên những bức tượng đài, trong những khu nghĩa trang yên tĩnh đầy phi lao. Từ một xã trắng, nay Đồng Lộc đã trở thành sầm uất với 5000 khẩu/1200hộ . Từ năm 1994, Đồng Lộc đã được phong tặng xã Anh hùng. Con đường mòn dày đặc bom năm xưa đã được trải nhựa láng bóng. Từ khi được công nhận là xã miền núi, Đồng Lộc đã lấy rừng làm mũi nhọn, đã bứt lên từ cây lâm nghiệp và cây ăn quả. Tuyệt đại đa số nhà dân trong xã đã ngói hoá, có bát ăn, bát để. Xã đã có trường cấp 2, cấp 3 cho con em đến lớp. ngay Ngã ba Đồng Lộc, một cụm tượng đài hoành tráng cao như tòa nhà 5 tầng vừa được khánh thành. Cả xã có tới 7 cum di tích nổi tiếng, mỗi năm có hàng nghàn lượt người đến thăm. Đồng Lộc đang có hướng mở mang, phát triển du lịch, vừa tạo điều kiện cho khách đến thăm, vừa tăng nguồn thu cho địa phương. Song, điều đó vẫn còn đang ở thì tương lai, vì “lực bất, tòng tâm”, không có kinh phí. Thi thoảng, những quả bom vùi sâu trong lòng đất từ 30 năm trước vẫn nổ. Chiến tranh vẫn chưa đi qua Đồng Lộc.Với đặc thù vùng núi miền Trung, nghề phụ không có, đất đai bạc mầu và nặng chua phèn, phải cố gắng lắm người nông dân ở đây mới đưa năng suất lúa lên 3,2/vụ/sào; 300 kg lương thực quy thóc/người. Vì thế, không phải nông dân Đồng Lộc không còn phải vật lộn với những khó khăn, lo toan cho cuộc sống. Cạnh việc đầu tư cho những tượng đài, những khu tưởng niệm, người dân ở đây đang mong có được những dự án, chương trình, những giống lúa mới, những nghành nghề phụ... phù hợp với đồng đất chua Đồng Lộc. Chỉ có như vậy, mới mong giúp Đồng Lộc nhanh chóng thoát khỏi cảnh khó khăn gần như cố hữu.
            Xin dẫn một câu nói hơi hoa mĩ của vị trưởng phòng VHTT Can Lộc để thay câu kết cho bài viết này: Hơn một lần, Đồng Lộc đã vì cả nước. Nay, cả nước, hãy hướng về Đồng Lộc./.
T.N
Nông thôn ngày nay
Ngày 22/7/1998.
(Chuyện đã quá xưa cũ; mọi việc sau đó đã trở nên êm đẹp, có hậu... Nó chỉ còn lại như một chút hoài niệm xưa! Nếu có ai đó trong cuộc vô tình đọc phải bài này, cho Tác giả gửi lời xin lỗi là đã vô tình vẽ lại một ngày mưa)...

http://danviet.vn/tieng-dan/chuyen-hang-xom-va-cu-na-dai-bac/20130929103225608p1c36.htm


ĐI TÌM TƯỢNG ĐÀI MẸ SUỐT

1.Từ bức tranh Bảo Ninh...
           
Từ bên này thị xã Đồng Hới, nhìn qua bên kia dòng sông Nhật Lệ là xã Bảo Ninh, quê hương của nữ Anh hùng Liệt sĩ Nguyễn Thị Suốt.
            Xã Bảo Ninh (thuộc thị xã Đồng Hới- Quảng Bình) trông giống như mũi một con tàu, mà một mạn là biển Đông, một mạn là dòng sông Nhật Lệ. Suốt một ngày sục chân trên cát, đi dọc ngang gắp làng, tìm đến từng nơi Mẹ đã sống và ngã xuống, chúng tôi không một lần được đặt chân trên đất. Gọi là xã, thật ra là một cồn cát trắng phơi mình giữa ba mặt biển khơi. Anh Trần Huyên, bí thư Đảng uỷ xã xót xa: Nhiều khi, chúng tôi chỉ thèm được đặt bàn chân trần lên cái mát lạnh của đất. Bước chân xuống giường là cát. Đi họp, đi làm cũng suốt ngày sục chân trong cát nóng. Cả xã có 510.000ha đất tự nhiên, thì chỉ có 97ha đất thổ cư, 270ha đất nông nghiệp, trong đó chỉ có 9,7ha đất trồng lúa, còn lại là... cát.
            Vậy mà, với một điều kiện tự nhiên như thế, mà Bảo Ninh nay đã vươn lên trở thành một trong những xã giầu nhất tỉnh Quảng Bình. Cách đây 30 năm, Bảo Ninh là vùng cát trắng, trắng cả con người. Duy nhất chỉ có bến đò mẹ Suốt là sinh tồn để đưa bộ đội qua sông. Nay, Bảo Ninh đã là một làng cá sầm uất sinh sôi trên cát với gần 7.000người/1.500hộ. Đất ít, người đông, người Bảo Ninh lấy nghề đi biển và chế biến hải sản làm nguồn sống chính. Hiện nay, cả xã có tới gần 400 thuyền lớn, công suất 60 sức ngựa, ra tận phao số “0”, lên Quảng Ninh, xuống Phan Thiết đánh bắt hải sản. Nếu năm 1978, vụ được mùa nhất cũng chỉ đạt 800 tấn hải sản/năm; nay, bình quân mỗi năm đạt 2.000 tấn, trong đó có 30% được xuất khẩu trực tiếp. Các công việc chế biến hải sản, đóng sửa tàu thuyền... cũng phát triển, gần như 100% lao động trong xã đều có việc làm ổn định, thu nhập cao. Vì thế, hộ được coi là nghèo ở đây cũng thu nhập 150.000đ/khẩu, mà không phải là 15kg gạo/khẩu như ở nhiều nơi khác. Tuy vậy, số hộ được coi là nghèo này (thu nhập 150.000đ/khẩu) tuy chỉ chiếm 10%, rơi vào những gia đình không có lao động, hoặc không biết làm ăn. 30% số hộ có thu nhập 30-50 triệu; 30% số hộ có thu nhập trên 100 triệu mới được coi là hộ giầu. Số hộ trung bình còn lại mỗi năm cũng thu lãi vài ba chục triệu. Không năm nào năng suất lúa của Bảo Ninh xuống dưới 9,5 tấn/ha. Đời sống văn hóa, xã hội trong xã cũng phát triển. 100% số hộ có nhà kiên cố, 100% học sinh học cấp 1-2, không có ai mù chữ. Từ năm 1968, toàn xã Bảo Ninh đã sớm được phong Anh hùng; và hiện nay, cũng đang là một xã điểm, xã khá nhất trong 17 xã miền biển của tỉnh Quảng Bình... Đảng bộ và nhân dân Bảo Ninh đã vẽ nên một bức tranh hoành tráng rực rỡ.
Cùng con trai cả Mẹ Suốt(1996).
           
            2...Đến bức Tượng đài trong tranh.
            Từ nhiều năm nay, hình tượng mẹ Suốt không những là niềm tự hào của mỗi người dân Bảo Ninh, người dân Quảng Bình, mà còn là biểu tượng của dân tộc Việt Nam bất khuất.
            Mẹ Suốt hy sinh ngày 22/8/1968 năm vừa tròn 60 tuổi. Nếu còn sống, năm nay mẹ vừa 88. Xuất thân từ một gia đình nông dân, trước những năm chiến tranh phá hoại, mẹ tranh thủ lúc nông nhàn, làm nghề chèo đò qua sông chở người chở cá... kiếm tiền nuôi 4 người con 3 gái 1 trai ăn học. Năm 1966, giặc Mỹ điên cuồng ném bom Đồng Hới suốt ngày đêm hòng cắt đứt tuyến giao thông chiến lược Bắc Nam. Cả làng, cả thị xã đi sơ tán hết. Bảo Ninh biến thành một vùng trắng người mà đen khói bom. Một mình mẹ bám sông, bám đò đưa bộ đội, đưa vũ khí qua sông. Năm 1967, mẹ được phong Anh hùng, được ra Hà Nội gặp Bác Hồ. Đến năm 1968, mẹ hy sinh vì một loạt bom bi, tay còn nắm chặt mái chèo. Trong vòng 3 năm, mẹ đã chở gần 1.000 chuyến đò với hàng vạn lượt bộ đội qua sông dưới làn bom đạn. Hình ảnh “Mẹ Suốt” tay chèo đò, mắt nhìn máy bay đã tạc thành tượng đài trong tim mỗi người dân Việt Nam từ cách đây 30 năm... Và khi biết được vào Bảo Ninh công tác, chúng tôi thầm mong, sẽ được thắp ba nén nhang, quỳ chân trước tượng đài mẹ mà lạy một trăm lạy.
            Vậy mà, sục chân trên cát nóng cả ngày, chúng tôi cũng không tìm thấy bức tượng đài ấy ở đâu. “bến đò mẹ Suốt” phía Đồng Hới, nay đã biến thành một cái chợ cá, ồn ào, tấp nập, trên bến dưới thuyền, suốt ngày bốc lên mùi cá ươn tanh tưởi. Một cái gọi là “phù điêu mẹ Suốt” xây vội vã, nhấp nhô giữa chợ người, đầy quang, đầy cá, lan can gẫy sập, tường vôi nhám đen, nhếch nhác. Anh Hùng, con trai mẹ Suốt than thở với chúng tôi: tượng đài chẳng ra tượng đài, phù điêu chẳng ra phù điêu, bia tưởng niệm chẳng ra bia tưởng niệm. Trông xa thì giống như một mảng vôi bị lở, trông gần thì giống như một vết mực đổ... Quả thật, không biết có phải mình kém cỏi về hội họa, song hình dung mãi, chúng tôi mới nhận ra hình một người đang lái đò trên lưng chừng. Tấm “phù điêu”, thấy chất đầy nào chăn, màn, chai mắm, lọ nước, nón, áo, củi... Hỏi ra mới biết đấy là đồ đạc của một cụ già 76 tuổi, người Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh) vào đấy xin cá, lấy luôn tấm phù điêu “Mẹ Suốt” làm nơi tá túc, che mưa, che nắng. Vô tình, ống kính máy ảnh của người viết bài này chụp được cảnh cụ đang... bậy vào bức phù điêu. Hai cái bình hương ở hai mặt đổ ngả nghiêng. Chúng tôi cũng không dám thắp hương vào đấy.
            Nghĩa trang Liệt sĩ xã Bảo Ninh bạt ngàn bia mộ các Liệt sĩ ngã xuống trong hai thời kỳ bảo vệ Tổ quốc.
            Phải nói, nghĩa trang xây dựng đẹp, trang nghiêm, ngự trên một quả đồi ngay cạnh UBND xã. Giữa bạt ngàn bia mộ, tấm bia tưởng niệm mẹ Suốt nổi bật hẳn lên. Sau khi thắp hương trên Đài tưởng nhớ các Liệt sĩ, chúng tôi vác máy ảnh ra mộ mẹ. Hãnh diện làm sao, có được một tấm ảnh  chụp mình đang thắp hương trên mộ mẹ Suốt. Song, thật ngỡ ngàng khi một người đi cùng rỉ tai: mộ giả đấy. Sau này, về đến văn phòng UBND xã mới biết, năm 1993, trước khi qua đời, chồng mẹ Suốt có dối lại, muốn được nằm bên mẹ. Ngày xưa, khi “Mẹ Suốt” chèo đò đưa bộ đội qua sông, ông đã an ủi, động viên, khích lệ mẹ, mang cơm, mang chăn màn cho mẹ... Nhiều người cho rằng, không có ông chắc cũng không có hình tượng “Mẹ Suốt”. Vì thật sự, hai ông bà đã trở thành đồng chí của nhau, điểm tựa của nhau  trong những ngày mẹ đội bom chèo đò. Hẳn lúc chết, ông cũng muốn nằm bên bà, để làm chỗ dựa, để mà an ủi... Ngặt một nỗi, mặc dù được thưởng Huân trương độc lập hạng 3 nhưng ông không phải là Liệt sĩ(!), nên không được đưa vào NTLS. Mà chẳng lẽ, trong nghĩa trang tôn nghiêm của xã, lại không có mộ Anh hùng Liệt sĩ Nguyễn Thị Suốt. Vậy là, xã quyết định xây một ngôi mộ giả cho mẹ trong nghĩa trang, còn mộ thật của mẹ thì vẫn cứ để ngoài cồn cát trắng, suốt gần 30 năm nay. Mãi đến năm 1995, nhiều người xì xào, xã mới lại phá tấm bia mộ để đổi thành “Bia tưởng niệm Anh hùng Liệt sĩ Nguyễn Thị Suốt”.
            Rời nghĩa trang Liệt sĩ, chúng tôi tìm đến ngôi mộ thật của “Mẹ Suốt”. Gọi là khu lăng, nhưng thật ra cũng chỉ là một ngôi mộ xây công phu, nằm trên cồn cát sát biể Đông. Trước đây, mẹ Suốt được an táng ngay nơi mẹ ngã xuống. Đưa về đây từ năm 1970, nhưng năm ngoái, Sở VHTT Quảng Bình mới cấp kinh phí mới xây chứ trước đây cũng chỉ là một ụ cát. Nghe đâu trên cấp 5 triệu đồng, gia đình xây hết 6 triệu hai. Cách mộ mẹ chừng 50m là mộ chồng, cũng nằm trên một gò cát trắng toát. Nói là mộ, song thật ra là một đống cát được vun lên, bao quanh là chừng gần trăm viên gạch xếp tròn để cát khỏi trôi. Trên mộ, duy chỉ có vài cái chân hương cắm xiêu vẹo. Cụ đã đến ngày sang cát. Song gia đình nay không biết tính kiểu gì? Trước sau cũng phải đưa hai người lại bên nhau theo lời trăn trối của cụ ông. Mộ mẹ Suốt đã xây gọn gàng khá đẹp với 6,2 triệu đồng. Nếu xây mộ cụ ông bên cạnh cụ bà mà sơ sài, thì sợ “bên nặng, bên nhẹ”, mẹ cũng không yên lòng. Mà xây cho đàng hoàng, tương xứng thì không có... tiền. Ba người con gái mẹ Suốt suốt ngày ngoài chợ bán rau, bán dưa chỉ đủ nuôi con. Một mình người con trai út làm thợ mộc, mà đã làm thợ thì chỉ nuôi... miệng. Giá mà bây giờ, “Mẹ Suốt” và chồng cũng được “màn sui sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”... Tấm bằng của  Bộ VHTT cấp ngày 22/01/92 công nhận Bến đò mẹ Suốt (tức bến Cự Hà - Thị xã Đồng Hới) là di tích Văn hóa Lịch sử cũng chẳng có chỗ nào để treo cho xứng đáng; đành phải ngự trên một cái nóc tủ cũ trong uỷ ban xã cùng với mũ, áo mưa... của cán bộ xã(!).
            Trở lại ngôi nhà “Mẹ Suốt”, chúng tôi ngỡ ngàng: sao nhà mẹ Suốt lại đẹp đến thế? Hỏi ra mới biết, ngôi nhà cũ của mẹ đã bị cũ nát và mối ăn gần sập. Cách đây 2 năm, khi nhà gần có nguy cơ bị sập, anh Hùng, con trai út mẹ Suốt phải phá đi làm lại. Mà đã làm lại thì phải đàng hoàng cho “bằng anh bằng em”. Vậy là anh phá đi “ngôi nhà mẹ Suốt”,thay vào đấy là ngôi nhà mái bằng khang trang chừng 30m2 bằng tiền đi mượn. Nhìn ngôi nhà xinh xắn, chúng tôi giật mình: Thế hệ sau, nếu đến thăm nhà mẹ Suốt, hẳn sẽ thốt lên: Nhà mẹ Suốt đẹp quá. Ai sẽ hình dung nổi cái cảnh mẹ Suốt “cực thân từ thưở mới lên chín mười”. Chắc rằng, mươi năm nữa khi nền du lịch phát triển, và đẻ giáo dục lịch sử cho lớp trẻ, người ta sẽ lại dựng lên ở đâu đó một ngôi nhà mẹ Suốt giả lụp sụp, giột nát để phục vụ khách tham quan về giáo dục truyền thông ấy mới nhớ nguồn. Con đò mẹ Suốt sau lúc mẹ mất vẫn còn; mà nay chẳng biết chỗ nào? Duy chỉ giữ được một mái chèo cất trong viện Bảo tàng tỉnh; còn cái mái chèo khác phải làm... giả.
            Ngoài tấm phù điêu bên bờ Đồng Hới là bến đò chính, ngôi mộ giả trong nghĩa trang, khu mộ thật trên cồn cát, ngôi nhà mới của mẹ Suốt, còn có 2 nơi nữa để thắp hương cho mẹ. Đó là 2 bến đò phía bờ xã Bảo Ninh. hai bến đò này cũng có 2 tấm bia tưởng niệm, vị chi là 6 nơi tưởng niệm,song chẳng có một nơi nào được cấu trúc tương xứng với tầm vóc của “Mẹ Suốt”.
            Anh Phạm Đình Tiến- sinh viên Đại học Nghệ Thuật Huế mới ra trường, với một tâm huyết ấp ủ về hình ảnh mẹ Suốt, đã phác thảo bức tượng đài về mẹ. Cả tỉnh, huyện, xã và gia đình đều khen mẫu tượng đài đẹp, xứng đáng với hình tượng và tầm vóc “Mẹ Suốt”. Song cho đến nay, bức tượng đài vĩnh cửu để ghi công một người nữ hai lần được tuyên dương Anh hùng ấy vẫn còn nằm trong... bìa họa báo. Vì kinh phí khó khăn, không có... tiền. Trong khi đó, ngoài Bộ giao thông vận tải nhận “Mẹ Suốt” là Anh hùng giao thông vận tải, hiện nay, còn 4 ngành, đoàn thể nữa đều muốn nhận mẹ Suốt làm nữ Anh hùng của ngành, của đoàn thể mình(?!). Song có ai hiểu được trăn trở của chàng sinh viên 23 tuổi mới tốt nghiệp trường Đại học Nghệ Thuật Huế?
            Nghe đâu tỉnh Quảng Bình cũng đang định giải phóng chợ cá để xây một khu quần thể tượng đài “Mẹ Suốt”, vì mẹ là niềm tự hào, là biểu tượng của tỉnh Quảng Bình. Song thị xã chưa chịu, vì họ bảo chợ họp đấy “quen rồi”.                       
           Ngồi trong phòng khách tỉnh uỷ Quảng Bình, nhìn qua cửa sổ tầng hai, thấy tòa nhà hát 4000 chỗ ngồi xây hết 9 tỉ đồng để chào mừng Đại hội Đảng nổi lên sừng sững bên này bờ sông Nhật Lệ; tôi thầm ước ao bên bờ sông bên kia, nơi quê hương mẹ Suốt, cũng nổi lên lồng lộng một tượng đài Mẹ Suốt thấp thoáng bên bờ sông Nhật Lệ trắng sóng.   
                                                                                                                               
                                                                                                                            Báo Lao động
Ngày 11 tháng 8 năm 1996.
(Và bây giờ, Quảng Bình đã dựng xong Tượng Mẹ rồi- đẹp, hoành tráng-
 trên Bến Cự Hà, chính nơi ngày xưa Mẹ ngã xuống- ảnh 2)                                                                     


500 CÔ GÁI KHÔNG CHỒNG...
ĐI ĐÂU?

    
Có người đùa Tác giả: 500 cô gái không chồng đi... tắm suối!
      Quả thật, tôi là một gã đàn ông quá đỗi vô tình. Biết Liên làm ở nông trường Sông Bôi đã 24 năm, mà mãi tới bây giờ tôi mới một lần tìm gặp. Ngày ấy, tôi và Liên học cùng một lớp. Kẻ ngõ trên, người ngõ dưới, suốt 8 năm, từ vỡ lòng đến lớp 7, mỗi lần đi học, tan học, tôi và Liên vẫn như hình với bóng. Liên không xinh, nhưng có duyên, và cái răng khểnh hồi ấy đã làm khổ khối người. Hồi cuối lớp 7 tôi biết Liên mên mến tôi qua những cái nhìn đau đáu, những gói kẹo bạc hà mà Liên giúi vội cho.
Nhưng tôi, lại mê mẩn với một cô bạn khác, cũng cùng lớp. Cái tuổi học trò ấy mà. Học xong cấp 2, mỗi người mỗi ngả, tôi học tiếp cấp 3, còn Liên theo chị lên nông trường Sông Bôi ...
          
  Đứng trước cổng nhà Liên, lần đầu tiên tôi lại thấy ngập ngừng. Hôm trước về quê, thấy thầy tôi bảo: Liên vẫn không chồng! Già bốn chục tuổi đầu, một vợ, hai con, gã đàn ông đến thăm cô bạn gái chưa chồng, nghe cứ làm sao? Tôi còn đang chần chừ, chân trong, chân ngoài đã nghe thấy tiếng Liên hát một điệu ru não nề đến sởn da gà: “À... ơi... Thương nhau cho thịt cho xôi, ghét nhau đưa đến Kim Bôi... hái... chè...” Đúng là giọng của Liên, cái giọng trầm trầm đặc sệt tiếng địa phương mà 1/4  thế kỷ vẫn không thay đổi. Bài hát ru và tiếng vỗ bồm bộp làm tôi biết Liên đã có con, và chắc chắn con còn nhỏ. Liên đã lấy chồng? Nghĩ thế, tôi lấy hết can đảm để bước chân qua cái cổng tre xộc xà xộc xệch. Cuối cùng, tôi cũng ngồi đối diện Liên trong nhà. Gọi là “nhà”, song thực chất chỉ là mấy mảnh giấy dầu chụp trên ba hàng gạch xỉ xếp chồng lên nhau, xiêu xiêu vẹo vẹo dọa đổ bất kỳ lúc nào. Đồ đạc trong nhà độc nhất có 2 chiếc ghế gỗ tự đóng, thì một chiếc đã gãy chân, ngồi cứ đong đa đong đưa. Có một thứ đắt tiền nhất là chiếc đồng hồ Liên Xô vỡ nắp thì khô dầu, không chạy. Anh bạn phóng viên ảnh cùng đi với tôi ra vật nghiêng xe máy, chọc một ít nhớt xe tra vào, cái đồng hồ lại chạy tanh tách. Liên cười méo mó: Thế mà cứ tưởng hỏng, định vứt từ lâu. Trong nhà không có đàn ông, khổ thế đấy! Chợt nhớ lời ru ai oán lúc nãy, tôi chỉ cháu gái nhỏ chừng 4 tuổi, đang ngủ nhễ nhải trên chiếc chõng tre:
            - Thế bố cháu...
            Phải đến nửa phút lặng người như để kìm những giọt nước mắt, Liên mới bật ra:
            - Cháu không có bố.
            Lúc này tôi mới nhìn thẳng vào mặt Liên. Nước da trắng hồng hồi nào đã trở nên đen sọm. Mới 40 tuổi, mà nếu đoán là 60 cũng được. Tóc lốm đốm trắng. Chiếc răng khểnh làm duyên hồi nào biến thành đôi hàm răng... vẩu. Tôi xót xa: mảnh đất này khắc nghiệt đến vậy ư? Liên bảo: không, mới vậy thôi.
            Với bề dày hàng trăm năm khai phá (1883) và hàng chục năm thành lập (1961), lúc ấy, Nông trường Quốc doanh Sông Bôi (NTSB) vang bóng một thời, giống như một biểu tượng, một điểm sáng trong giai đoạn quá độ tiến lên CNXH. Nhớ thời 1960 - 1965, hàng ngàn Thanh niên khắp miền Bắc viết đơn xung phong lên NTSB lao động, công tác, lấy việc lao động trên nông trường là nghĩa vụ vinh quang của cả một thế hệ. Năm 1975, sau khi học xong cấp 2, Liên lên với NTSB đúng lúc cả Liên và NT đang vào thời kỳ sung sức nhất. Năm 16 tuổi, Liên đã là công nhân biên chế chính thức của nông trường. Đất đai trù phú, Liên định nảy mầm, ươm cây ở đây...
            Nhưng rồi, sau khi chuyển sang cơ chế thị trường, NTSB đã và đang xuống dốc nhanh chóng, nếu không muốn nói là đang đứng trước bờ vực tan rã. Tan rã cả về đất đai, cả về con người. Năm 1990 -1991, với trên 2000ha đất tự nhiên, có hơn 2200 công nhân, mà tổng toàn bộ tài sản nông trường còn có 1,1 tỉ đồng, trong đó nợ 1,75 tỉ đồng không có khả năng chi trả. Với mức lương 50.000 đ/tháng mà phải nửa năm mới có một lần, hàng ngàn công nhân phải rời bỏ nông trường đi tứ tán khắp nơi, kẻ đi buôn chó, người vào miền Nam, người về quê. Sau khi khoán đất về hộ (1993), quả là doanh thu và giao nộp của nông trường có khá lên thật nhờ kiểu làm ăn “bán canh, thu tô”. Song đấy là nông trường bộ. Còn đất đai và con người tan tành hết. Sau năm 1993, gần 2.000ha đất được bán hết cho hộ dưới hình thức “bán cây” hết chu kỳ thu hoạch. Người công nhân đã phải đóng tiền đất một lần, song lại vẫn phải nộp sản, nộp quản lí phí theo kiểu mua canh, trả tô, và tự phải nộp  cả 20 % lương cơ bản vào quỹ BHXH (?). Nông trường họ có cái lí của nông trường: Người lao động “đã thu sản phẩm”, nên phải tự đóng BHXH (?). Tính bình quân một công nhân bậc 6, phải đóng 1,2 triệu đồng BHXH/năm, trong khi thu nhập từ 1- 200.000đ/tháng, nên họ tự bỏ nông trường mà đi hết. (1988 có 2220 CN; 1991: 1334 CN; 1996: 884CN; 1997: 618 CN; 1998:546 CN). Vì theo họ, làm công nhân hay ra ngoài cũng thế: vẫn nộp tiền đất một lần, vẫn nộp sản (30%) và quản lí phí (33- 100% nộp sản), ra khỏi biên chế càng khỏi phải đóng BHXH hơn triệu/tháng. Có người lên lương bậc 6 từ 1989, nay cho nâng bậc nhất quyết không lên, vì lương càng cao đóng BHXH càng nhiều. Thế là, trong vòng 10 năm, NTSB đã “bán” xong gần 2.000ha đất, và “giảm biên” được1674 người. Còn lại 546 người, họ là ai mà gắn bó với “biên chế” của nông trường? đó là trên 30 người thuộc nông trường bộ, như Giám đốc, kế toán, thủ quỹ... và xấp xỉ 500 người đang ngấp nghé tuổi nghỉ hưu, nên họ cố kiên nhẫn để chờ... sổ hưu. Còn lại, nhiều người đã có 15- 17 năm công tác trong biên chế, cũng đều phải tự nguyện ... rút lui. y nên mới có chuyện cười ra nước mắt: mấy năm trước, có tờ báo loan tin rằng: NTSB có 500 cô gái không chồng (!). Hôm chúng tôi lên làm việc, một ông trong ban lãnh đạo cứ khăng khăng: tờ báo ấy nói sai, nông trường hiện chỉ còn một cô gái... “khó lấy chồng”. Vì hồi ấy, có 500 cô xung phong lên NTSB công tác thật, nhưng 449 cô đã ... bỏ mà đi rồi. Liên, bạn tôi, là một trong số 449 cô gái ấy. 17 năm trong biên chế nông trường, đến lúc “bỏ mà đi” thì đã lỡ thời con gái, chẳng giám về quê, Liên cũng “tậu” được một mảnh vườn chè cỗi 5 sào; 4 năm trước, Liên cũng theo chị, theo em “tậu” được một bé gái không cha để nương tựa lúc về già. Liên bảo, trong đội của Liên, cũng khoảng mươi người phải đành như thế. Đấy là còn sướng hơn 6 chị đang ở trong khu tập thể đội 6, 10 người, thì 6 chị còn không chồng, không con... Thảo nào, lúc xe máy tụi tôi đi qua khu tập thể, thấy các chị vịn cửa nhìn theo xe tôi đau đáu! Cạnh nhà Liên là nhà Huệ, cũng cảnh như vậy. Huệ 40 tuổi, quê Phù Lưu Tế – Mỹ Đức – Hà Tây, rời quân ngũ vào đây lập nghiệp từ năm 1983. Không chồng nhưng có một con gái nhỏ 8 tuổi. Huệ “nhận khoán” 5 sào chè song phải nộp 6,5 triệu đồng “mua cây chè” đã qua 31 năm thu hoạch, giờ đã cỗi hết. Sau 17 năm gắn bó với nông trường, nay tài sản lớn nhất chỉ có chiếc xe đạp nát. Năm1997, xây một gian nhà hết 5 triệu nay vẫn nợ 3 triệu. Đang hưởng lương bậc 4, mỗi năm phải đóng 700.000đ BHXH cùng với trên 300kg thóc thuế Nhà nước và quản lí phí; cũng đang lo nay mai nông trường giải thể, không biết... đi về đâu? Huệ không có tiền đóng BHYT. May mà 17 năm nay chưa ốm trận nào, chứ không, cũng chẳng biết chạy chữa ở đâu?
            “Hạnh phúc” nhất trong số các gia đình mà chúng tôi vào, có lẽ là chị Lê Thị Thủy, 37 tuổi, đội 7. Chị có cả chồng, cả con. Chị (quê Mỹ Đức- Hà Tây) và chồng (Ninh Thanh - Hưng Yên) lên đây “lập nghiệp” từ năm 1997. Năm 1998, “hợp đồng” mua của nông trường 1,1ha đất, giá 8 triệu đồng, trong đó có 0,4ha chè + 0,7ha đất trắng. Chè mà chị “hợp đồng” đã qua 24 năm thu hoạch; thu bình quân đạt 120kg/sào x 4 sào x 1.800 đ/kg = 816.000đ/năm. Song mỗi năm anh phải nộp 800.000đ tiền thuế Nhà nước và tiền quản lí phí của cả 1,1 ha đất cho nông trường. Đấy là chưa kể 840.000đ tiền thuốc sâu, 600.000đ tiền phân bón cho 0,4ha chè. Hỏi làm sao mua, anh bảo: để có chỗ ở. 3 năm lập nghiệp trên nông trường, 2 vợ chồng anh, 2 đứa con vẫn bàn tay trắng, sống trong một túp lều tranh vách đất rộng 10m2 , ốm đau bệnh tật không biết bấu víu vào ai...
             Lúc ở nhà Liên ra, mấy anh công nhân chặn chúng tôi lại mà bảo: nông trường bộ thì giầu lên nhờ bán canh thu tô. Người lao động thì tan tác, ngày một khốn khó. Trong khi nông trường khác, như Lam Sơn, Sông Hậu... đang bắt đất đẻ ra vàng. Thì 2349ha đất của NTSB vẫn đang như nàng công chúa ngủ quên trong rừng.
             Còn hai thằng chúng tôi lại nhảy lên chiếc xe ọc ạch để đi tìm: còn gần 500 chị nữa, giờ đang ở đâu?
T.N
Báo NTNN
(Ngày 11/5/1999).


(Sau bài báo này, Giám đốc NTSB kiện Tác giả lên bờ, xuống ruộng. Họ bảo: Cả Nông trường chẳng có ai tên là Liên- như trong bài báo! Tác giả đã bịa đặt?...  Và đến giây phút cuối cùng, Tác giả vẫn không tiết lộ: Liên trong bài chính là Biên- Vũ Thị Biên- quê ở thôn Đốc Kính, xã Đốc Tín, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây- chỉ vì sợ Nông trường lại làm khổ em)!