TRĂNG MUỘN!
Tôi nguyên là giám đốc một doanh
nghiệp lớn của tỉnh, về hưu tới nay vừa tròn sáu năm. Tôi đang sống đơn độc
trong một căn hộ khá khang trang ven bờ sông Đáy thuộc một huyện chiêm trũng
nằm tận cuối tỉnh. Về hưu với lương giám đốc, mỗi tháng tôi vẫn được hơn 1triệu
đồng, cộng với thu nhập từ ao cá, vườn cây ăn
quả rộng 3 sào, tiền tôi tiêu không hết, mỗi năm để ra vài ba chục triệu
triệu đồng gửi tiết kiệm. Cuộc sống nông thôn với mức thu nhập ngần ấy đã là dư
giả.
Bởi tôi sinh sống điều độ, không
thuốc, không rượu..., nên dù đã ngoài 65 tuổi, tôi vẫn khỏe mạnh như lúc còn
đang đi làm: tóc còn đen, da vẫn đỏ, răng chưa rụng, hai tay vẫn xách được hai
thùng nước to, ai cũng bảo tôi là người có phúc! Vậy mà giờ đây tôi lại đang bạc tóc về một
mối tình mà không biết là phúc hay là họa? Tôi băn khoăn không biết thổ lộ cùng
ai, đành viết mấy chữ, trước là trút bỏ nỗi lòng, sau là xin ý kiến của quý
báo, quý độc giả.
Cách nay vừa tròn 45 năm, lúc 20
tuổi, bố mẹ đã bắt tôi lấy vợ. Tôi là con độc nhất trong nhà, bố mẹ tôi muốn
sớm có người nối dõi. Lấy vợ xong là đi.
Hết chiến trường B đến Nam Lào, Đường 9... Xa nhau đằng đẵng, tuy chẳng được
yêu nhau ngày nào, song vợ chồng tôi thương nhau thật sự. Cô ấy là con của một
ông đồ cùng dạy học với bố tôi. Bốn lần về phép, cô ấy sinh cho tôi được 4 cháu
gái xinh xắn. Giải phóng miền Nam xong, tôi chuyển ngành đi học đại học hàm
thụ, rồi từ phó phòng, trưởng phòng, lên giám đốc. Dù công việc quản lý doanh
nghiệp rất bận rộn, tôi vẫn dành hết tình yêu thương cho vợ, cho con mong bù
đắp lại cho mẹ con cô ấy những thiệt thòi trong chuỗi ngày tôi đi xa đằng đẵng.
Gia đình toàn con gái, song thật hạnh
phúc, những lúc gian khó nhất của thời bao cấp trong nhà lúc nào cũng vẫn luôn
tràn ngập tiếng cười.
Ai ngờ, cách đây 15 năm, nhà tôi mắc
một căn bệnh hiểm nghèo. Tôi cùng các con đưa nhà tôi đi hết viện này, viện
khác, được chăm sóc hết mình song nhà tôi vẫn không qua khỏi. Tôi gục ngã gục
suốt mấy năm liền, song thương các con, tôi cố đành gắng gượng. Lúc ấy tôi mới
ngoài 50 tuổi. Sau “đoạn tang” vợ, nhiều người mai mối, khuyên tôi “đi bước
nữa” cho có bầu, có bạn lúc tuổi xế
chiều, nhưng ngại cảnh dì ghẻ con chồng, tôi quyết ở vậy một mình nuôi các
cháu. Nay, tất cả bốn đứa đều đã có gia đình, đứa con gái út cũng lấy chồng đầu
năm ngoái; cả 8 đứa gái, rể đều là kỹ sư, bác sĩ, giáo viên... Đứa lớn lấy
chồng xa nhất cũng ở Sài Gòn, đứa út lấy chồng gần nhất cũng trên thị xã, cách
nhà vài chục cây số. Đứa nào cũng vậy, khi mới lấy chồng, tháng nào cũng về
thăm tôi đến dăm ba bận; sau thì một tháng, hai tháng, thậm chí ba tháng chúng
mới về một lần, còn điện thoại thì ngày nào cũng gọi. Mấy lần về thăm, chúng
cũng có ý mời bố ra thành phố, thị xã ở, nhưng tôi sống ở quê quen rồi, ở
đấy còn có bà con họ mạc, chòm xóm. Hơn nữa, cái bàn thờ nhà tôi, chẳng lẽ lại
để hương lạnh, khói tàn? Thông cảm với con cháu bận công việc xã hội, tôi chẳng
hề có ý trách chúng một câu, song lắm lúc cũng cảm thấy buồn. Lại cảnh cơm
niêu, nước lọ, chẳng khác nào hồi mới chuyển ngành sống ở khu tập thể cơ quan.
Đùng một cái, “bà ấy” xuất hiện
trước mặt tôi sau đúng 32 năm xa cách.
Tôi quen bà ấy ở mặt trận Đường 9 vào
năm 1967, lúc chiến tranh đang vào thời kỳ ác liệt. Lúc ấy, bà ấy là thanh niên
xung phong, tròn 18 tuổi, còn tôi đã là trung đội trưởng, tuổi ngoài 30. Biết
tôi đã có vợ, có con, song không hiểu sao bà ấy vẫn yêu tôi cuồng nhiệt. Từ cái
cúc áo đứt, viên thuốc sốt rét, đến bát cháo lúc tôi ốm... đều do một tay bà ấy
lo liệu. Bà ấy rất xinh, da trắng như trứng gà bóc, nết na, lại có giọng hát
rất hay, bao nhiêu người ước ao được bà ấy yêu thương mà bà ấy dửng dưng, lại
đi yêu tôi, một người đã có một vợ, hai con. Tôi cũng thầm yêu bà ấy thực lòng.
Song tôi đã có vợ, có con, hơn nữa lính thời chiến dính vào chuyện yêu đương
bất chính như vậy là phạm tội nặng lắm, nên tôi không dám đi xa hơn quan hệ anh
em, đồng đội, thậm chí nhiều khi tôi phải trốn bà ấy. Hôm đơn vị tôi
chuyển quân, lần đầu tiên tôi và bà ấy
mới dám lén ra ngồi với nhau bên bờ suối. Bà ấy khóc suốt cả một buổi chiều,
nước mắt ướt đẫm một bên vai áo quân phục của tôi. Tôi vẫn nhớ mãi câu nói cuối
cùng của bà ấy trước lúc chia tay: “Dù anh chết hay trở về với vợ, với con, xin
anh hãy nhớ rằng: em yêu anh suốt đời, và sẽ chỉ yêu mình anh thôi...”. Quả là
một người con gái có tính cách mạnh mẽ khác người. Bà ấy tặng tôi cái khăn dù
quàng cổ, tôi vẫn giữ gìn hơn 30 năm nay. Thi thoảng tôi vẫn nghĩ đến bà ấy,
song thâm tâm chỉ nghĩ đấy là một kỷ niệm thời trai trẻ mà thôi. Tôi vốn vẫn là
một người chồng, người cha mẫu mực.
Một hôm, có chiếc xe ca chở khách đi
chùa Hương đến ngõ nhà tôi thì hỏng máy, khách xuống xe kẻ đứng ven sông ngắm
cảnh, người ngồi ven đường lố nhố. Một người phụ nữ nhỏ nhắn thấy nhà tôi có
bể nước mưa, bà ta vào xin nước uống. Tôi bảo, đi chùa sao uống nước lã? Bà ấy
bảo: “Cháu” ở nông trường, quen và chỉ thích uống nước mưa... Rồi bà ấy hét
lên: Anh Đống phải không...? Bà ấy xuất hiện như ma hiện, tôi bất ngờ quá, chỉ
biết đứng như trời chồng giữa sân. Kể cũng lạ. Hơn ba chục năm trời, từ con
người đến đất trời bao sự đổi thay, vậy mà vừa nhìn thấy tôi bà ấy vẫn nhận ra
ngay. Sau bà ấy bảo: anh có cái răng khểnh không lẫn vào đâu được, có... chui
dưới đất em cũng vẫn nhận ra... Hôm ấy, bà ấy lỡ cả chuyến lên chùa.
Hết tết Quý Mùi vừa rồi, sau khi
tiễn con cháu đứa vào Nam, đứa ra thị xã, tôi lén khăn khói tìm lên chỗ bà ấy.
Nơi bà ấy sống là một nông trường
của tỉnh B, đang trong thời gian chờ giải thể.
Tưởng nơi nào, chứ nông trường này
thì tôi biết đã lâu.
Đó là một khu đất màu mỡ rộng tới
hơn 2000 ha, nằm giữa ngút ngàn của núi rừng Tây Bắc. Trước năm 1960, nông
trường còn là khu đất hoang thẳng cánh cò bay. Theo “tiếng gọi Tây Bắc”, đầu
những năm 1960, hàng ngàn thanh niên xung phong mà phần lớn là nữ đã tình
nguyện lên đây khai phá rừng hoang thành nông trường trù phú sau này. Hàng trăm
bài báo đã viết đủ lời để ca ngợi nông trường. Hàng chục bài thơ ca ngợi sức
mạnh của con người được thai nghén từ đây. Hồi ấy, nông trường như một biểu
tượng của tinh thần tập thể, một bản anh hùng ca ca ngợi thành quả lao động cua những con người...
Khó một nỗi, những năm ấy lớp thanh
niên chúng tôi ra mặt trận gần hết. Lên với nông trường mười người thì chín
người là nữ. Mảnh đất mầu mỡ mà không có đàn ông. Sau 20 năm xây dựng, vào đúng
cái lúc nông trường lên đến đỉnh của vinh quang thì mới “tòi” ra một vấn đề xã
hội nhức nhối: hàng trăm cô gái ngày nào lên với nông trường còn mơn mởn, bỗng
chốc biến thành những “cô lữ” không chồng! Ngày ấy, cánh lính tráng chúng tôi,
cứ đánh xong vài trận lại được một dịp ra miền Bắc an dưỡng, nghỉ phép... Nghỉ
phép mươi ngày, đủ thời gian vừa “tìm hiểu”, vừa cưới xong một “cô bé nhà bên”
do bố mẹ “dấm” cho từ trước, công đâu mà mò lên tận cái nông trường heo hút
cách xa hàng trăm cây số ấy. Thế là nhiều cô ế. Mà ế hàng loạt. Đầu những năm
1980, nhiều cô “tự cứu lấy mình” ở cái tuổi đã “đầu ba, đuôi vô cùng” bằng
cách... về quê tìm chồng. Có cô lấy được anh trung úy xuất ngũ. Có cô lấy được
anh công nhân cùng cảnh xa nhà. Có cô lấy anh thương binh vừa từ trại an dưỡng
trở về. Nhiều cô lấy chồng thương binh được gọi là hành động cao cả, đẹp đẽ của
thế hệ thanh niên thời bấy giờ. Cũng có nhiều tấm gương những người phụ nữ rất
cảm động mà ở đây tôi không thể kể hết ra. Song suy cho cùng, đã làm người,
nhất lại làm phụ nữ, ai chẳng muốn có
chồng, có vài đứa con? Trước là để có đứa trẻ bi bô cho đỡ vắng cửa, vắng nhà,
sau là để lúc về già có chỗ mà dựa dẫm. Với một mong muốn cháy bỏng là được làm
mẹ, một vài “cô lữ” nông trường bắt đầu dấm dúi... đẻ! Bây giờ, chửa trước,
cưới sau, thậm chí không chồng mà chửa đã là chuyện thường. Chứ hồi ấy, không
chồng mà chửa là chuyện tày đình, nhiều người ác mồm vẫn gọi là “chửa hoang”.
Hồi ấy, hai từ “chửa hoang” như cái án tử hình đối với những nhà nào có con gái
lớn. Vì thế, khi tiễn con đi đâu xa, bố mẹ chẳng dặn dò gì ngoài một câu: “Khi
về, nhớ đeo “ba lô” đằng sau, chớ đeo “ba lô” đằng trước; mất nết tao... băm!”.
Thế mà có cô vẫn cứ chửa. Có tổ địa chất trú chân tạm trong nông trường: có cô
chửa! Anh lái xe chở gạo đến nông trường: cũng có cô chửa! Có cô mẹ ốm, xin về
quê dăm hôm chăm sóc mẹ, lên được non tháng đã vội bỏ về quê vì có... chửa!
Theo quan niệm cũ, hồi ấy gái không chồng đâu được quyền sinh con. Thế nên, cô
nào có bầu, vội vã lẻn về quê để đẻ. Không về thì nông trường cũng đuổi, nên cứ
tìm cách “chuồn” trước là xong! Khổ thân, có cô biết mình có chửa bèn bỏ đi đâu
biệt tăm, ở lại nông trường chẳng ở vì không có chốn nương thân, về quê cũng chết vì sợ... (!). Có cô không dám
về quê, xin nông trường vài chục mét đất hoang tận cuối bìa rừng làm lán ở tạm,
người ta đồn um lên: chắc... con ông Giám đốc nên mới... mới “sướng” như thế!
Để giữ cái “tiếng” cho mình, ông Giám đốc lại phải yêu cầu cô này rời khỏi nơi
đang cư trú. Chửa: bỏ về quê; chửa: đuổi khỏi nông trường... Cứ thế, mỗi đứa
trẻ sinh ra từ nông trường là cả một cái ao chứa đầy nước mắt. Đầu những năm
1980, nông trường vợi người, ông Giám đốc có lúc cũng giật mình: hàng chục cô
gái không chồng... biến mất (?). Cứ “đà” này, nông trường lấy đâu ra người mà
sản xuất?
Cũng may, trước những năm “đổi mới”,
nhất là từ khi có Luật Hôn nhân và Gia đình, quan niệm nặng nề về chuyện này
nhẹ nhõm hẳn. Người ta chỉ còn cười dấm, cười dúi đằng sau những cô gái không
chồng mà chửa, chứ chẳng ai còn dám đưa
ra cuộc họp, hoặc “bắt vạ” những cô gái đáng thương hơn là đáng giận. Quyền của
họ là được làm mẹ! Giữa những năm 80, nông trường vẫn còn hàng chục cô gái ngoài
40 tuổi mà vẫn... phòng không. Sau khi chuyển sang cơ chế thị “khoán hộ”, lãnh
đạo nông trường nẩy ra “sáng kiến”: cấp cho mỗi cô dăm chục mét vuông đất ven
đường cái, cho mỗi cô vay vài triệu đồng dựng cái nhà tạm, gọi là “đầu tư
cho... tương lai!”. Chỉ trong một tháng, cả chục ngôi nhà nhỏ, vách đất, mái rạ
đồng loạt xuất hiện ven con đường tỉnh lộ chạy vắt qua nông trường. Và chỉ một
năm sau, dân số nông trường đột ngột tăng lên được hàng chục... đứa trẻ. Báo
chí, dư luận coi như một “sự kiện”; có báo hết lời ca ngợi ông Giám đốc bằng đủ
mỹ từ: nào là “nhân văn cao cả”; nào là “năng động”; nào là “tình người”... Có
báo gọi đấy là “Làng không chồng...”; có người gọi đấy là “Làng không cha...”.
Không gì thì không, người ta cũng là con người, cũng có quyền được làm mẹ chứ! Ông
Giám đốc già hoan hỷ bảo thế, coi đấy là một thành công mang đậm tính nhân văn!
Quả thật, ông đã đúng. Bây giờ, những đứa trẻ cùng năm sinh ngày ấy đều đang học
phổ thông trung học trường huyện, và đang là “nguồn sống chính” ở nhiều nghĩa
của hàng chục gia đình. “Làng không chồng” này đã biến thành “làng đông con”...
Đấy là những gì tôi được biết qua
báo chí và tìm hiểu sau này. Có điều, tôi cứ nghĩ nó là chuyện ở tận đẩu, tận
đâu, hay chuyện của ai đấy trong phim, trong tiểu thuyết (!). Không ngờ Nguyệt-
bà ấy- cũng từng có một quãng đời không kém gì giông tố. May mà nghị lực người
lính đã giúp bà ấy vượt qua.
Lúc đứng trước ba cái cọc tre buộc
vào nhau gọi là “cổng”, tôi ứa nước mắt mà không tin nổi vào chính mắt mình...
Trên một vạt đất rộng chừng nửa sào
nằm khuất dưới chân đồi, những thanh nứa chiếc dài, chiếc ngắn cắm xiêu
vẹo. Rào cắm mà không buộc lạt, thưa đến nỗi một con lợn con cũng lọt qua.
Nhìn cách cắm rào tôi suy nghĩ: chắc
nhà không có đàn ông! Chính giữa cái vạt đất ấy, một gian nhà nhỏ, mái lợp
tranh, tường xếp gạch xiêu dẹo. Xung quanh nhà, chè xuân xanh mơn mởn. Nguyệt
ngồi ở chái nhà ,tư lự, chậm chạp bốc
từng nắm ngô ném cho đàn gà to lồng lộc dẽ đến dăm chục con. Trông thấy tôi,
Nguyệt vụt đứng dậy. Đàn gà đạp lên nhau chạy thục mạng. Nguyệt đứng trân trân
nhìn tôi, mắt giàn dụa nước. Em thốt lên một câu: Không ngờ... anh... lên
thật...
Giữa bốn hàng gạch được gọi là
“tường” không thấy có cái gì đáng giá. Một bộ phản gỗ sung dùng lâu ngày đã
nhẵn thín. Chiếc xe đạp cũ không sơn được treo cẩn thận ở góc nhà bằng
hại sợi thừng. Đã 2 giờ chiều mà chiếc kim giờ đồng hồ vẫn chỉ con số 6. Nguyệt
méo mó cười: Có mỗi cái đồng hồ thì đã hỏng từ lâu. Nhà không có đàn ông mà
anh...
Một điều làm tôi thật bất ngờ: Đằng
sau tấm riđô hoa chắng ngang gian nhà để chia thành “buồng” có chiết tủ đứng cũ
kỹ dùng để đựng quần áo; trên nóc tủ đặt chiếc khung ảnh mà người trong đó
không ai khác chính là tôi. Nhìn tấm ảnh truyền thần rất đẹp, tôi nhớ ngay đến
buổi chiều chia tay bên bờ suối, tôi đã tặng Nguyệt một tấm ảnh cỡ 3x4 cm. Lạ một điều, tấm ảnh truyền thần của tôi đặt trên nóc tủ lại có một giải lụa đen
vắt chéo qua ngực theo kiểu ảnh chụp một
người đã chết. Thấy tôi quá đỗi ngạc nhiên, Nguyệt nói như van vỉ:
- Anh vừa đi mệt, Xin anh, cơm nước
xong, em sẽ kể hết anh nghe...
Quả thật, 15 năm nay tôi mới lại có
được những giờ phút hiếm hoi như buổi chiều hôm ấy. Sau ngày vợ mất, tôi dành
hết tình yêu thương cho bốn đứa con gái.
Song chúng cũng còn phải lao vào học, lao vào những cuộc thi. Chúng yêu tôi,
thương tôi, song thực lòng, mấy khi con cái hiểu được lòng cha mẹ? Sau, lên đại
học, rồi lấy chồng, sinh con, chúng càng ít có thời gian quan tâm đến bố hơn.
Lắm lúc tôi thấy thương tôi. Tôi thật cô đơn giữa chốn đông người. Hồi còn làm
Giám đốc, tôi đi nhiều, ăn nhiều, uống nhiều, đủ thứ sơn hào, hải vị. Ấy vậy mà
đôi lúc vẫn thèm một bát canh cua nấu rau mồng tơi ăn với cà pháo mà cũng không
có. Đôi lúc thèm cả một lời trách móc của vợ với chồng, thèm cả một lời quát mắng
của mẹ đối với con, nhưng đâu có được. Bà ấy mất rồi!
Bữa chiều hôm ấy, ngoài món gà luộc
mà Nguyệt nuôi được, bà ấy còn đãi tôi món canh cua đồng nấu với rau mồng tơi
kèm cà pháo là những thứ tôi nghiện từ trong bộ đội, và cũng là nhữnng thứ rất
khó kiếm ở cái vùng đất nửa đồi, nửa núi này.
Suốt bữa, bà ấy không ăn, chỉ ngồi
nhìn tôi nhẩn nhà từng hớp rượu nhỏ.
Đêm hạ tuần, trăng muộn.
Lúc ông trăng khuyết mất một góc đột
ngột chui lên từ ngọn đồi chè xa xa, bữa cơm mới tàn.
Tôi hỏi Nguyệt, sao lại thờ tôi
trong khi biết tôi còn sống. Bà ấy nén một tiếng thở dài rồi bảo:
- Chuyện dài lắm, nhưng trước khi
kể, em phải một trăm lần xin lỗi anh...
Mẹ sinh em vào một đêm rằm trăng
sáng. Đêm ấy, trên đường đến nhà hộ sinh, mẹ đẻ rơi em bên bờ giếng đầu làng;
nhờ ánh trăng sáng vằng vặc mà bố mới nì rõ để tự tay cắt rốn cho em. Em sống
nhờ ánh trăng. Có lẽ vì thế, bố đặt tên cho em là Nguyệt để nhớ đêm trăng hôm
ấy.
Người ta vẫn bảo, con gái sinh vào
đêm rằm thường đáo để; còn ai có tên là Nguyệt, tên Liễu... thường hay gặp cảnh
“hồng nhan”, chẳng biết có đúng hay không? Suốt từ bé đến lớn, chưa thấy ai bảo
em đáo để bao giờ. Chỉ biết, tính em khác người: đã làm gì, làm bằng được; đã
ghét ai, ghét hơn đào đất đổ đi; đã yêu ai, em quên cả thân mình. Học hết cấp 2
em nghỉ học. Năm 18 tuổi, nhiều người khen em đẹp nhất làng: mắt bồ câu, sống
mũi dọc dừa... gái quê đồng chiêm lam lũ
mà nước da vẫn trắng ngần như trứng gà bóc. Mẹ em thở dài: thanh niên lành lặn
ra trận hết cả rồi, muốn lấy một anh tử tế, chẳng lẽ tao lại... cho đi bộ đội?
Bố em bảo: “Cái ngữ ấy mà đòi ra trận, có họa... vướng chân!”. Chỉ vì một câu
ấy của bố, em lén nộp đơn vào bộ đội thật. Dạo ấy bộ đội không tuyển nữ, mà chỉ
tuyển vào Thanh niên xung phong. Em đã
cuốc bộ 7 cây số lên tận huyện, nộp đơn xin vào Thanh niên xung phong, mặc bố
em chầm ngâm chép miệng, thở dài, còn mẹ ngầm khóc đến cạn nước mắt. Em cùng 8
đứa con gái cùng tuổi, cùn làng lên đường một ngày mà vui ngỡ đi hội. Lần ấy
bọn em xuất quân bằng đò. Mỗi huyện được phân bổ một chiếc đò gỗ to, chở cả
trăm người lẫn gạo thóc, hàng hóa... Cả tỉnh có 14 huyện là 14 con đò. Rất
nhiều cô giá trẻ măng ở độ tuổi mười bảy, mười tám. Cờ, biểu ngữ đỏ rợp một
đoạn ngã ba sông Đáy. Hết đò đến xe Zin, khoảng ba tháng đã ra gần hết mặt trận.
Những ngày đàu sống ở trạm giao liên tiền phương em đã gặp anh. Anh biết không,
em yêu anh đến mê mẩn, cuồng si. Phút gặp đầu tiên em đã nghĩ ngay rằng: anh
sinh ra là để cho em; và sinh em ra cũng là để cho anh. Tinh yêu đích thực
thường như vậy. Anh cao, to, đẹp trai, hai mắt sáng như sao, lại thêm cái tài
ăn nói lôi cuốn, rất duyên... Anh biết không, cả tiểu đội em chúng nó mê anh,
suốt đêm chỉ bàn chuyện về anh; song biết anh đã có vợ, có con, lại thêm kỷ
luật mặt trận, không đứa nào dám hé răng- ngoài em. Không biết có phải hồi ấy
em “lẳng lơ” hay không? Cũng may hồi ấy anh là người cương nghị, anh chạy trốn
em. Nếu không, chẳng biết bây giờ thế nào? Hạnh phúc nhất trong suốt cuộc đời
em là buổi chiều trước hôm anh chuyển quân, em được một lần khóc trên vai anh
bên bờ suối. Không một câu anh nói yêu em, song qua ánh mắt, em biết anh cũng
yêu em. Đối với em, chỉ thế là đủ. Sau buổi chiều hôm ấy, không hiểu tại sao em
cứ nghĩ đã là vợ anh. Em khắc khoải. Em đợi chờ. Đêm nào trước khi đi ngủ em
cũng cầu trời, khấn phật cho anh trở về, anh đừng chết. Em với anh như có một
định mệnh mà chính em cũng không lý giải nổi. Suốt sáu năm làm thanh niên xung
phong hỏa tuyến, đi đến đâu em cũng hỏi thăm anh, dò la tin tức về anh, song
biệt vô âm tín. Năm 1972, giữa lúc bom Mỹ đang đáng phá ác liệt ở Hà Nội, bọn
em được chuyển quê hương. Cả huyện trống dong, cờ mở đón chúng em. Xã em chín
đứa đi thì có sáu đứa về. Hai mươi bốn tuổi. Ở quê em tuổi ấy coi như đã khó
lấy chồng. Cũng một vài người mối mai, đánh tiếng, em chẳng hề rung động trước
ai. Đứng trước họ, em lại nghĩ đến anh, em lại lắc đầu. Người ta bảo “Con cá
mất, con cá to” là thế...
Ở nhà với bố mẹ được đúng 6 tháng,
thấy còn buồn hơn ngày đi hỏa tuyến. Ngoài việc đi làm theo kẻng cho Hợp tác xã
lấy ngày mươi điểm, chẳng còn việc gì làm. Bạn bè cùn lứa đã lấy chồng hết,
chẳng có chỗ mà chơi. Nghe tin nông trường này tuyển công nhân nữ chuyên đi hái
cam, em lại lên xã xin “chỉ tiêu” đi xây dựng nông trường...
Nguyệt kể đến đây thì ngoài phí bờ
rào có tiếng xe máy Minskhơ nổ xoành xoành. Một ông xe ôm đội chiếc mũ cối chùm
hụp xuống tận mặt, vừa bóp còi inh ỏi, vừa rọi đèn cho một cô gái lách qua cành
rào chắn ngang ba cái cọc tre làm cổng. Vừa chạy vào nhà, cô gái vừa ríu rít:
- Mẹ... Mẹ...
Cô gái còn trẻ, ra dáng một nữ sinh.
Qua ánh đèn vàng, tôi thoáng thất thần: không ngoài ai khác, đấy chính là
Nguyệt của hơn ba mươi năm về trước; từ khuôn mặt, đôi mắt, sống mũi..., không
lẫn vào đâu được. Nguyệt vụt đứng dậy:
- Con em đấy!
Cô gái sững lại trân trân nhìn tôi,
rồi lại nhì lên cái ảnh thờ cài chéo băng tang vẫn đặt trên nóc tủ. Nguyệt ngẹn
ngào bảo con gái:
- Cha đấy, con...
Tôi đứng như trời trồng. Thật bất
ngờ chỉ trong vài tích tắc, cô gái chạy nhào về phía tôi...
Tôi không hiểu nổi chuyện gì đang
xảy ra nữa.
Hồi còn ở chiến trường, tôi và
Nguyệt mến nhau thật, song yêu nhau theo đúng nghĩa của nó thì chưa bao giờ.
Duy nhất buổi chiều cuối cùng bên bờ suối vắng, tôi ôm em vào lòng, đặt lên môi
em một nụ hôn. Chỉ vậy thôi. Chẳng lẽ chỉ có thế mà Nguyệt nỡ... đổ vạ cho tôi?
Cháu gái mới chừng ngoài hai mươi
tuổi, gọn ghẽ, xinh xắn như mẹ ngày nào. Cháu chỉ kịp thét lên một tiếng:
Cha!... rồi đổ gục trên vai tôi.
Sau mấy phút nức nở đến nghẹn ngào,
cháu trách:
- Sao cha nỡ bỏ con suốt hai chục năm
nay, hở cha...?
Tôi nghẹn người không nói được câu
gì, đưa ánh mắt giận giữ nhìn Nguyệt. Nguyệt chắp tay, vái trước mặt tôi hai
cái:
- Em xin anh, thư thư rồi em kể hết
anh nghe, anh sẽ hiểu...
Cháu gái tên Hạnh- Nguyễn Thị Đức
Hạnh- lấy họ của tôi. Sau nửa ngày đường từ trường đại học ở Hà Nội về, cháu
thấm mệt. Quá nửa đêm, cháu đã ngủ mê mệt. Con bé giống Nguyệt ngày xưa quá!
Trong giấc ngủ, thi thoảng nó lại nhếch miệng, nở một nụ cười mãn nguyện. Nó
đang có một giấc mơ tràn trề hạnh phúc.
Đợi con ngủ say, Nguyệt lại lần lần
quá khứ, kể nốt câu chuyện còn dở dang cho tôi nghe.
... Năm 1972, sau hơn nửa năm ở nhà
với bố mẹ, em lại tình nguyện lên nông trường. Hồi ấy, đàn ông ra mặt trận hết.
Nông trường có gần một ngàn người thì tới hơn chín trăm rưởi là nữ. Ban ngày
bọn em đi làm theo đội, trồng cam, cắt cỏ..., vui lắm! Đêm về, một nôi cô đơn,
vắng vẻ, heo hút, bao phủ lên cả đội. Đội 2 chúng em có 50 người, thì cả 50 người
là nữ, từ đội trưởng, đội phó, tổ trưởng... Quá nửa đội là thanh niên xung
phong xuất ngũ, sàn sàn, độ tuổi 22- 25. Ban ngày đi làm vất vả nhưng vui. Đêm
đến, 50 đứa nằm trong một lán, không đứa nào nói với nhau một câu. Có đứa chong
đèn dầu, cặm cụi suốt đêm viết thư cho gia đình. Nhiều đứa vờ ngủ, vắt tay lên
trán, mắt thao láo nhìn lên mái gianh mà thở dài sườn sượt. Có đứa nằm ôm nhau,
rấm rứt khóc... Nhiều khi cả tháng chúng em không thấy một bóng đàn ông đi qua.
Nhớ một lần, có anh cán bộ huyện đội đi tuyển quân đạp xe ngang qua, cả đội
nói, cười, trêu chọc, rồi lấy đất, đá, củi khô... ném anh cán bộ huyện đội. Anh
này sợ quá, quẳng cả xe đạp chạy thục mạng, sáng hôm sau bọn em lại phải cử
người mang xe lên lận huyện trả người ta. Suốt hàng chục năm trời như vậy. Chán
cảnh ấy quá, một số đứa bỏ về quê lấy chồng. Không hiểu bằng cách nào, một vài
đứa có chửa, nông trường kỷ luật lên, kỷ luật xuống rồi mới đuổi việc. Có đứa
vác bụng về quê, đứa bỏ đi đâu không rõ? Gan lỳ nhất là cái Huyền. Khi biết nó có
chửa, ông Giám đốc nông trường ký quyết định cho nó thôi việc, đuổi về quê, nó
dứt khoát không về. Nó vác bụng vào rừng tìm tre, nứa, làm một cái lán nhỏ trên
miếng đất hoang ven nông trường, sáng sáng xuống chợ huyện, mua hàng đầu chợ,
bán cuối chợ, vậy mà sống được! Hồi nó đẻ được thằng con trai, cả đội em coi
như con chung. Thằng bé bây giờ đã là kỹ sư lâm nghiệp, đang công tác ở chính
nông trường này.
10 năm sống cảnh như vậy, đến năm
1982, thì có tổ địa chất đến khảo sát suối nước nóng đóng trại ngay gần đội của
em. Cả đội mừng như ruộng cạn gặp cơn giông. Lúc này em đã 34 tuổi, tưởng như
cái tuổi đã hết thì con gái. Vậy mà có một anh vẫn đến với em. Anh ấy khen em
đẹp, em trẻ..., em mụ cả người không biết gì nữa. Anh ấy bảo: Đi biền biệt, chưa có
thời gian lấy vợ... Em như người đang ốm bỗng có thuốc thần, khỏe khoắn ngay
lại. Nhiều đứa ganh tỵ, bảo em “tốt số”. Ngẫm cũng xứng đáng thôi! Ngoài ba
mươi tuổi. Vẫn còn xuân sắc. Mà em đã được ai yêu bao giờ?...
Lúc cái bụng em lùm lùm, cũng là lúc
đơn vị anh ấy hoàn thành nhiệm vụ phải về xuôi. Hôm chia tay, anh ấy thề sống
thề chết rằng chỉ mươi hôm sau anh ấy sẽ lên đón em về. Mươi hôm... Một
tháng... Một năm... Rồi hai mươi mốt năm..., anh ấy lặn mất tăm. Chỉ thương cái
Hạnh, côi cút suốt hai mươi mốt năm nay.
Cũng may hồi em có mang, quan niệm
về gái không chồng mà chửa không còn nặng nề như xưa nữa. Sau khi có cơ chế
khoán hộ, nông trường còn cắt cho em một miếng đất nhỏ và cho vay ít tiền để
dựng cái nhà tạm. Trong nhà có đứa trẻ con, em thấy mình cũng hạnh phúc.
Đẻ cái Hạnh xong, em mới biết rõ con
người thật của bố nó. Té ra anh ta đã có vợ và ba đứa con gái ở dưới xuôi. Anh
ta đến với em chỉ để kiếm thằng con trai. Khi biết tin em lại sinh con gái, anh ta
trốn biệt luôn. Có người xui em mang con trả cho nhà anh ta, em không nghe. Con
người bạc tình như thế em chẳng tiếc. Lúc ấy, không hiểu làm sao em chỉ nghĩ
đến anh. Em cứ ước ao rằng, giá như cái Hạnh nó là con anh? Em cứ tiếc rằng,
sao buổi chiều hôm ấy em không liều mình xin anh một đứa con? Biết anh họ
Nguyễn, em lấy họ anh là họ con. Giấy khai sinh của nó, trong phần ghi về bố,
em cũng lấy tên anh: Nguyễn Văn Đống! Khi lên hai tuổi nó đã nói sõi. Câu hỏi
đầu tiên trong đời nó với em là: “Bố con đâu?”. Em lấy tấm ảnh của anh ra, chỉ
cho nó xem và bảo: “Bố hy sinh rồi”!. Suốt những năm thơ ấu, nó luôn giữ tấm ảnh
anh bên mình. Em biết, nó yêu bố vô cùng. Cái ảnh trên bàn thờ kia là hồi lên
10 tuổi, nó bắt em xuống phố huyện vẽ truyền thần, rồi đặt lên bàn thờ. Suốt
hai chục năm nay, nó vẫn tin rằng người trong ảnh chính là bố nó. Sau hôm gặp
lại trong chuyến đi Chùa Hương, em nói với nó: “Bố hãy còn sống...”, nó như
phát cuồng, tuần nào học xong cũng vội vã từ Hà Nội về, bắt em dãn đi gặp anh.
Tội nghiệp nó quá...!
Giờ tôi đã hiểu.
Nguyệt van vỉ tôi hãy vì Nguyệt, vì
cháu Hạnh mà đừng cho nó biết sự thật. Hãy cứ để nó yên ổn trong niềm hạnh phúc
dù giả tạo là có một ông bố tuyệt vời như tôi. Tôi thương Nguyệt. Tôi thương
cháu Hạnh vô cùng. Bỗng dưng, cả hai mẹ con đối với tôi như trở thành máu mủ.
Tôi không muốn làm mất đi niềm hạnh phúc cuối cùng của hai mẹ con. Song còn 4 đứa con gái của tôi, bốn đứa rể và hàng
chục đứa cháu ngoại, lại còn bà con lối xóm, họ hàng..., tôi biết ăn nói với họ
ra sao? Có ông bạn thân biết chuyện khuyên tôi đón mẹ con cô ấy xuống dưới này
cho có bầu, có bạn lúc tuổi già... Chao ôi! Đã 15 năm sống vò võ một mình, tôi
cũng muốn thế lắm chứ. Song đến cái tuổi này, chẳng nhẽ để người đời mai mỉa,
con cháu cười chê. Ở đời có câu: “Trăng sớm còn chẳng ăn ai, huống gì trăng
muộn”. Còn bỏ mặc mẹ con Nguyệt tôi cũng không đành!
Tôi đau đầu quá, không biết xử trí ra sao. Đành
viết lá thư dài, trước là để dốc bầu tâm sự, sau là hỏi quý báo, quý độc giả:
Có ai rơi vào hoàn cảnh như tôi không? Tôi nên làm thế
nào đẻ vẹn cả đôi đường?... Tôi xin hết lòng cám ơn.
T.N