“ÔNG
GIÀ KHÙNG”,
VÀ KHO KỶ VẬT BẰNG MÁU
Kỳ 1: “Trai cầu Giẽ”!
Đất Phú Xuyên đồng chiêm, nước trũng, được coi là cái “rốn nước”
của tỉnh Hà Tây. Chưa đến nỗi “sống ngâm da, chết ngâm xương”; song người dân
ở đây vẫn quen thấy cái cảnh “đi cày ngập nửa bụng trâu”… Chẳng thế mới vài
trận mưa đầu mùa, đã thấy nhiều cơ quan, ban, ngành trong huyện … mênh mang
trong nước.
Con đường vào nhà ông Lâm Văn Bảng, thôn Nam Quất, xã Nam Triều
cũng vậy: Một con đường nhỏ đầy rơm lầy lội, gồ ghề như nổi trên mặt nước
trắng xóa. Một vườn cây um tùm, rậm rạp tưởng như toàn muỗi! Ấy vậy mà đây
lại đang được coi là một “địa chỉ đỏ” cho hàng vạn người ghé thăm, để rồi bùi
ngùi, để rồi ngẫm suy… Mới dăm năm trước, cả vợ – và nhiều người – còn gọi
ông Lâm Văn Bảng là “ông già khùng”, để rồi bây giờ lại ngất ngây trước hơn
2000 món tài sản còn quý hơn cả cổ vật của ông: những hiện vật làm từ… máu.
Ông sinh năm 1942.
Ở cái tuổi ngoài sáu mươi thời nay vẫn được coi là… trẻ. Còn ông,
ngoài được cái dáng người đen, chắc, trông chẳng khác một ông lão… tám mươi.
Mới nghỉ hưu được vài năm, đã thấy chân tay ông co quắp, râu tóc bạc phơ… Ấy
là chứng tích của gần 6 năm tù thì có tới gần 1500 ngày bị chính quyền Sài Gòn
giam cầm ở nhà tù Phú Quốc. Đấy là chưa kể những năm tháng gian truân thời ấu
thơ…
Ông kể, cái ngày xưa ấy, nghèo, nghèo lắm. Xã Nam Triều và cả huyện
Phú Xuyên quê ông được coi là nghèo nhất tỉnh Hà Tây, thì nhà ông lại được
coi là nghèo nhất xã Nam Triều. 5 anh em trai, chỉ mình ông “oách” nhất là được
học đến lớp 7. 4 anh em khác, người hết lớp 2, kẻ hết lớp 3 đều phải bỏ học ở
nhà cày cuốc, mò ốc, bắt cua kiếm sống qua ngày. Tấm áo chẳng đủ mặc; bát sắn,
bát ngô chẳng đủ no. Thế mà cua ốc đồng chiêm cũng nuôi nổi 5 anh em trai ăn
ăn, lớn lớn để sau 4 người ra trận thì một anh cả đi đánh Pháp, 3 anh em đi
đánh Mỹ. Hồi ấy, do có người anh cả (năm nay 82 tuổi) từng là tù binh của Pháp
bị đày tại Phú Quốc, lại có 2 người anh em đang ngoài mặt trận chống Mỹ, nên
chàng trai Lâm Văn Bảng không thuộc diện gọi nhập ngũ. 21 tuổi được tuyển đi
công nhân giao thông. 23 tuổi (1965), tự coi mình là “Chàng trai cầu Giẽ” (vì
nhà chỉ cách cầu Giẽ vài km), anh Bí thư chi đoàn hạt quản lý đường 75 Lâm
Văn Bảng trốn nhà, trốn địa phương, xin đi bộ đội. Cuối năm ấy, Lâm Văn Bảng
lại viết đơn tình nguyện vào chiến trường miền Nam chiến đấu. 24 tuổi, anh
lính trẻ Lâm Văn Bảng được kết nạp Đảng tại mặt trận trong trận đánh đồn Bôn
Đốp (Sông Bé). Trong cuộc Tổng tấn công mùa xuân Mậu Thân vào Sài Gòn, cả tiểu
đoàn hy sinh gần hết, chỉ còn 12 người trở về, trong đó có Lâm Văn Bảng. Trong
trận đánh vào Sào Gòn đợt 2 (tháng 5/1968), Lâm Văn bảng bị 15 vết đạn, giập
nát hết tay, chân… Tưởng Lâm Văn Bảng đã chết, đồng đội vội kéo “xác” anh vùi
tạm vào một hố bom, chờ dịp… chôn sau. Khi lính Mỹ– Nguỵ đi thu dọn chiến trường,
thấy Lâm Văn Bảng vẫn còn ngọ nguậy, chúng tra còng số 8 vào cả đôi chân và đôi
tay đều rách tướp của anh rổi quẳng lên trực thăng. Sau 2 năm nằm hết Khám Chí
Hòa đến nhà tù Hố Nai, do lại “can tội” tổ chức đấu tranh chống chiêu hồi,
chống đánh đập, chống… xem tivi, rồi tổ chức cơ sở Đảng, tổ chức truy điệu Bác
Hồ…, Lâm Văn Bảng bị địch đày ra đảo Phú Quốc.
Đã có quá nhiều tư liệu, sách, báo… nói về sự hà khắc, dã man của
nhà tù Mỹ – Nguỵ nói chung, nhà tù Phú Quốc nói riêng; nên cựu tù Lâm Văn Bảng
không nói nhiều đến gần 1500 ngày trong cái “địa ngục trần gian” ấy. Song ông
ngạc nhiên đến lạ kỳ: 6 năm trời, 15 vết thương không hề được chữa trị. Có
những vết thương dòi đã ăn rồi dòi lại…đi. Cứ vài tháng lại thấy một mảnh đạn
đùn ra từ… vết thương… Vậy mà chẳng hiểu làm sao ông cũng không chết do nhiễm
trùng? Có hôm kêu đau đầu để đòi đi viện, chúng lấy dùi cui gõ vào đầu, hỏi:
khỏi chưa? Bảo: chưa khỏi! Chúng lại gõ, gõ đến khi đầu mềm nhũn ra rồi chúng
cũng chưa thôi. Không kể “tầu bay”, “tầu ngầm” (hai cách gọi trò tra tấn dã
man của địch), anh em sợ nhất khi bị chúng bắt ngồi rồi chụp thùng phi lên
đầu mà… gõ. Anh nào khỏe cũng chỉ gõ đến cái thứ 2 là chẩy máu tai; gõ đến cái
thứ 5 là bị thần kinh. Rồi trăm trò tra tấn man rợ… Vậy mà anh em đều vẫn giữ
vững khí tiết: bằng mọi cách, cơ sở Đảng vẫn hoạt động, chỉ đạo mọi hoạt động
trong tù. Với phương châm“nhất lý, nhì lỳ”, Lâm Văn Bảng cùng cơ sở Đảng bí mật
lãnh đạo nhiều hoạt động, nhiều phong trào đấu tranh thắng lợi trong tù, như
chống đánh đập, chống thủ tiêu, đòi cải thiện bữa ăn… Nhiều đồng đội đã ngã
xuống trớc mặt Lâm Văn bảng bằng nhiều cách giết chóc, thủ tiêu, trả thù man
rợ, song suốt 4 năm trời lưu đày ở Phú Quốc, địch không lung lay được ý chí
kiên cường của Lâm Văn Bảng cùng hàng ngàn chiến sỹ khác.
Năm 1973, Lâm Văn Bảng được trao trả tự do theo Hiệp định Pari. Ông
nhớ lại: hôm ngã vào tay đồng đội, cơ thể tôi là một bộ xương teo tóp nặng hơn…
20kg với 15 vết thương “đeo” qua 3 nhà tù từ năm 1968.
Sau những ngày được đi chữa bệnh, điều dưỡng…, ông trở về đơn vị cũ.
Năm 1974, ra quân, ông lại trở về ngành giao thông, được đi học… Năm 1985, ông
đã là Hạt trưởng Hạt quốc lộ 1, chỉ huy sửa chữa cầu Giẽ. Lần ấy, đơn vị ông
đào được một quả bom tấn còn nguyên vẹn nằm ngay dưới chân cầu. Sau khi trục
vớt, rút thuốc, ông cho xây một cái bệ xi măng ngay đầu cầu rồi… đặt quả bom
lên. Trên thành bệ, ông lại cho đắp nổi một dòng chữ to: “Cô gái Suối Hai,
chàng trai Cầu Giẽ”. Lúc ấy, nhiều công nhân dưới quyền, và cả những người dân
đều cho rằng: ông Hạt trưởng bị… “khùng”!
Và từ cái lần “khùng” thứ nhất ấy, ông đã ấp ủ một ý tưởng “khùng”
thứ hai: Xây bảo tàng Cách mạng!./.
Kỳ 2: Kho kỷ vật bằng máu!
Hôm moi được quả bom đen trùi trũi từ chân cầu Giẽ lên, ông Hạt
trưởng Hạt Quốc lộ 1 Lâm Văn Bảng mới giật mình: Hai cuộc đánh phá của máy bay
Mỹ ra miền Bắc, cầu Giẽ hứng hàng ngàn tấn bom, mà nay (có lẽ) chỉ còn thấy
một. Liệu sau này, con cháu còn thấy gì sau hàng trăm trận bom vào Cầu Giẽ?
Phải có gì lưu lại, để sau cháu con còn nhớ. Thế nên hồi ấy (1985), ông mới cho
đắp bức tượng đài “Cô gái Suối Hai, chàng trai Cầu Giẽ” bằng một… quả bom…
Ông Bảng nhớ lại:
Hồi ấy, cuối thời bao cấp, còn khó khăn đủ đường. Anh em công nhân
mà bữa đói, bữa no, lo làm việc và kiếm miếng ăn là chính, mặc dù hiểm nguy
chẳng kém thời chiến tranh (vì bom từ thời phá hoại miền Bắc còn sót lại có thể
nổ bất kỳ lúc nào), ít ai nghĩ đến chuyện cao siêu. Ấy mà ông Hạt trưởng, cứ
rảnh rỗi, lại ra ngồi ngắm “tác phẩm nghệ thuật” của mình là… cái quả bom! Hồi
ấy, nhiều người đã tưởng Hạt trưởng Bảng bị… “khùng”! Và trong một lần
“khùng” ấy, đầu Hạt trưởng Bảng lóe lên: Bao kỷ vật chiến tranh; rồi bao kỷ vật
hồi luư đày ngoài Phú Quốc, sao không sưu tầm, giữ gìn, trưng bày, để làm bài
học bằng máu cho cháu, con? Về nhà ngắm nghía 1.600m2 đất do ông cha để lại,
Hạt trưởng Bảng bàn với vợ: Xây bảo tàng cách mạng, xây Nhà tưởng niệm liệt
sỹ… Người vợ giáo viên hiền lành, hết mực thương chồng, thương con là thế mà
cũng giãy nảy lên: “Ông khùng! Ông định rước… ma về nhà à?”. Ấy rồi do có người
anh cả cũng từng là cựu tù Phú Quốc thời đánh Pháp hiểu và động viên; rồi biết
tính chồng làm gì kỳ được, bà giáo cũng đành… chiều theo. Thế là, cứ ngày nghỉ,
ông Hạt trưởng Lâm Văn Bảng lại… xin tiền bà giáo, rong ruổi khắp nơi chơi bời,
mà thực ra là đi tìm “Kỷ vật thời Phú Quốc”. Ban liên lạc cựu tù Phú Quốc biết
tin, ủng hộ hết lòng. Thế rồi từ đấy (1985), hàng chục cựu tù Phú Quốc cùng ông
Bảng lặn lội khắp 64 tỉnh, thành để tìm hiện vật. Ông Bảng bồi hồi nhớ lại:
không thể không nhắc đến các cựu tù Phú Quốc như các ông Chu Hữu Ngọc, rồi Đại
tá Tô Diệu, rồi Mai Thiện Chi, Nguyễn Huy Sang, Nguyễn Trọng Dư, Nguyễn Văn
Cử… và hàng trăm cựu tù chính trị nữa. Ông Chu Hữu Ngọc, cựu tù Phú Quốc, nay
đã 70 tuổi (hiện ở Hà Nội), bị ung thư bàng quang độ 3, lúc nào cũng đeo kè kè
cái “bàng quang giả” bên sườn, song 20 năm nay, lúc xe đạp, xe máy, khi máy
bay, tàu hỏa…, vẫn cùng ông Bảng và đồng đội khắp nơi rong ruổi suư tầm kỷ
vật. Chuyến đi xa gần đây nhất của các ông là vào cuối năm 2004, thì gồm ông
Ngọc ung thư độ 3; ông Bảng thương binh đặc biệt (81%)với 7 lần mổ, còn 1 quả
thận... Vậy mà 2 ông xin vợ, giắt lưng đi 50 triệu đồng, đi mấy tháng hết có 7
triệu; vì đi đến đâu, anh em trong Ban liên lạc “đãi” hết đến đấy. Thế mà 2 ông
cũng mang về đến hàng trăm hiện vật. Mà mỗi hiện vật đều làm từ… máu, nên để có
được quả là chuyện khó khăn. Biết ông Lương Minh Dũng, hiện là Tỉnh uỷ viên
tỉnh Khánh Hoà, có chiếc… bấm móng tay, các ông tìm đến. Mà đối với ông Dũng,
chiếc bấm móng tay này còn quý hơn cả tính mạng: Gia đình ông Dũng có tới 4 người
bị chính quyền Mỹ- – Ngụy giam cầm tại nhà tù Phú Quốc: Bố, chú, ông Dũng và
một người em. Chiếc bấm móng tay 5 tác dụng là của thân sinh ông Dũng làm từ
chiếc cà mèn bằng inox trong những ngày sống ở nhà tù Phú Quốc. Sau, chiếc bấm
móng tay được truyền lại cho chú, rồi đến hai anh em ông Dũng qua những lần gặp
nhau trong tù. Đối với ông Dũng, đây là kỷ vật gia truyền làm từ máu. Vậy mà
sau nhiều lần, nhiều người thuyết phục, ông Dũng cũng trao lại cho “Bảo tàng
cách mạng” của các cựu tù Phú Quốc. Hôm trao lại cho ông Bảng, thậm chí ông
Dũng đã phải thắp hương xin phép tổ tiên rồi mới dám trao. Thế mới biết, mỗi
kỷ vật làm từ máu ấy còn quý hơn cả nhiều lần… máu! Hay như lá cờ Đảng nhận
được từ anh Dư, cựu tù Phú Quốc, nhà ở Thanh Oai- Hà Tây. Lá cờ được thêu
bằng chì đỏ do nhuộm bằng máu chiến sỹ, nhỏ bằng lòng bàn tay nhưng từng là
linh hồn, là niềm tin của hàng nghìn cựu tù Phú Quốc hồi ấy. Lá cờ đã chứng
kiến hàng chục lần kết nạp Đảng ngay trong tù. Nghe kể lại, hồi ấy mỗi khi biết
sắp có khám xét, các anh lại đem cờ giấu dưới cát, hết khám xét lại moi lên
truyền nhau cất giữ. Chỉ khi nào làm lễ, như kết nạp Đảng, kỷ niệm Sinh nhật
Bác… mới dám treo lên mươi phút rồi lại phải giấu đi. Năm 1973, khi sắp được
trao trả, địch khám xét rất gắt gao. Có khi, anh em phải buộc cờ vào trong lần
vải buộc vết thương để che mắt địch. Hôm trao trả cũng vậy: anh Dư cho cờ vào
túi nilông, buộc dây chỉ, một đầu dây buộc vào răng rồi nuốt vào bong; trao trả
về phía ta rồi lại lôi cờ ra. (Anh Dư sau về làm chủ nhiệm HTX nông nghiệp ở
địa phương- vừa mới mất)…
Đấy, mỗi kỷ vật đều làm bằng máu như vậy; mà nay, Phòng Truyền
thống chiến sỹ cách mạng bị địch bắt, tù đày đã lên đến 2000 kỷ vật. Ông Bảng rưng
rưng cho tôi xem ba cuốn “sách” viết tay mà mỗi trang nhỏ bằng nửa bao thuốc
lá, dày chừng mươi trang mà bảo: có ông phóng viên nước ngoài đã “trả giá”
40.000 USD một cuốn; song có đến… 1 tỷ USD, chúng tôi cũng không bán. Vì- ông
bảo- không ai bán… máu đồng đội cả! Đấy là những cuốn “điều lệ Đảng”, “Điều lệ
Đoàn”, rồi sách dạy chính trị mà anh em đã viết bằng máu để chuyền tay nhau
trong những năm lựu đày ở nhà tù Mỹ-
Ngụy.
Sau 20 năm dọc ngang đất nước, nghe nói đâu có kỷ vật là đến; nay,
“kho báu” của các ông đã lên đến hơn 20 nghìn cá thể, mà mỗi kỷ vật đều nhuốm
máu của nhiều người. Trong khuôn viên của gia đình, nấp sau um tùm cây cối là
9 gian phòng lúp xúp chứa la liệt kỷ vật. Các ông trưng bày theo chủ đề: căn
phòng coi là sang nhất, đẹp nhất, được trưng bày những kỷ vật về Bác Hồ. Rồi
phòng trưng bày riêng về “cầu Giẽ anh hùng” mà trong đó có quả bom tấn đào dưới
chân cầu Giẽ ngày nào- quả bom đã tạo nên một “ý tưởng từ máu”. Khu nhà yên
tĩnh, lăng xăng vài ba người giúp việc. Hoá ra đấy cũng là những cựu tù đến…
trực! Ông Bảng kể: Ban liên lạc cựu tù Phú Quốc của ông có gần chục ngàn người,
mà ông là Phó ban, phụ trách khu vực phía Bắc. Phòng Truyền thống này là công
sức của tất cả anh em cựu tù. Khách đến thăm đông, nhất là học sinh, và nhất lại
vào thứ 7, chủ nhật, nên khoảng 50 người ở gần (Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam, Hưng
Yên…) thường xuyên túc trực ở đây để… đón khách và “thiết kế, duy tu…”. Ai đến
“trực” mang gạo, mang tiền lo 4 tự: tự nguyện, tự túc, tự quản, tự chịu trách
nhiệm. Ấy là chưa kể đến việc từ Trung ương đến địa phương, ở đâu cần, các
ông lại mang hiện vật đến tận nơi để trưng bày… Vậy mà, ai ai đều say mê như
“nghiệp” của chính mình. Vừa làm “hướng dẫn viên” miễn phí, những cựu tù vừa
làm thợ mộc, thợ xây, thợ làm vườn đến nấu cơm, rửa bát, đến dọi lại từng chỗ
dột hay phục vụ khách thăm quan. Có căn phòng trưng bày những kỷ vật đến vô
giá ấy mà mà nước giột tong tỏng, nước ướt sũng cả hiện vật. Có gian phòng
mới xây xập xệ nấp sau bụi chuối. Biết để thế dễ hư hỏng, song toàn cựu tù
chính trị, lấy đâu ra tiền. Đã có “Dự án 210 triệu đồng” để xây phòng trưng
bày cùng bảo quản cho tử tế hơn, song chẳng biết đến bao giờ mới thành hiện
thực. Cũng có một nữ phóng viên nước ngoài đến thăm rồi ngỏ ý tặng 20.000 USD
để xây phòng trưng bày mới. Bàn đi tính lại rồi thôi vì - các ông bảo- lúc ấy máu “tự hào dân tộc” lại “nổi lên”,
không nhận…
Thiết nghĩ, Phòng Truyền thống chiến sỹ cách mạng bị địch bắt, tù
đày của những cựu tù Phú Quốc mà ông Lâm Văn Bảng đang “trụ trì” thực chất là
một “Bảo tàng Cách mạng” thu nhỏ. Nơi ấy đang lưu giữ hàng ngàn kỷ vật mà
không thể coi đó là của riêng một tổ choc; nó còn là tài sản, là kỷ vật quốc
gia. Nên một vấn đề đặt ra là, ngành Văn hóa từ Trung ương đến tỉnh Hà Tây cần
hướng dẫn, tổ chức, rồi đầu tư để bảo quản… ra sao, để “Nhà bảo tàng” này có
thể phát huy hết hiệu quả và được bảo tồn mãi mãi. Không thể để tình trạng lúc
nào “thích” thì đến “mượn”, xong lại
“trả” như hiện nay… Vì Phòng truyền thống này đã đạt được 4 yếu tố: là trung
tâm sinh hoạt của hàng vạn cựu tù chính trị; là nơi lưu giữ hàng ngàn kỷ vật
vô giá; là nơi giáo dục truyền thống cách mạng cho nhiều thế hệ; và là một chốn
tâm linh có thực...
Trong một lần về thăm, sau khi làm lễ, nhà ngoại cảm Đặng Bá Hiệp đã
thốt lên rằng: “Anh em (liệt sỹ) “về” nhiều lắm các ông ạ…”!
Kỳ 3: Chuyện
“Nhân – quả”
Có tới 4 đứa con, thì ba đứa gái đã học xong đại học; cậu con trai
út cũng đang học năm thứ tư đại học Giao thông vận tải- nối nghiệp cha. Từ ngày
chúng còn là những đứa trẻ, ông đã trăm lần dạy : “Ở hiền thì sẽ gặp lành. Vì ở
đời có luật nhân- quả đấy, các con ạ…”! Và ông cũng không ngờ hai chữ
“Nhân- quả” lại gắn với đời ông, với gia
đình ông đến thế…
Trong cái khuôn viên rộng 1.600 m2 với 9 gian trưng bày những “kỷ
vật bằng máu” theo lối nhà vườn ấy, có lẽ nơi trang trọng nhất là “Đài tưởng
niệm các Liệt sỹ”. Gọi là “Đài”, song trông lại giống một ngôi chùa nhỏ, cũng
có cái cầu cong cong, cũng mái cuốn long đao… ngự trên mặt hồ cũng nho nhỏ. Vẫn
là hương khói, đèn nhang…, song điều đặc biệt ở đây: Đài tưởng niệm thờ chân
hương và đất của khá nhiều nghĩa trang, nhà tù trong nước: từ đất, chân hương ở
Nghĩa trang Liệt sỹ Điện Biên, Nghĩa trang Trường Sơn, Đền Bến Được, Nhà thờ Đá
Chông đến nhà tù Sơn La, Hỏa Lò, Phú Quốc, Côn Đảo, rồi cả nắm đất Củ Chi được
các ông mang về từ địa đạo… Ông Bảng chủ trì xây Đài tưởng niệm này từ cuối năm
2004; tiền do anh em cựu tù đóng góp. Lúc khởi công xây dựng, bà giáo vợ ông đã
kêu ầm lên mà rằng: “Các ông định rước… “ma” về nhà à?”. Rồi “ma” cũng… “về”
thật. Có điều, đấy là hương hồn các liệt sỹ, chứ không phải là… ma! Ông Bảng
tùi ngùi: anh em hy sinh nhiều lắm; mà tôi cũng… “nợ” anh em nhiều lắm. Nên
không thể chỉ lưu giữ kỷ vật của anh em, mà tôi muốn “thờ” anh em như người
ruột thịt, nên mới xây “cái này”. Ông Bảng bảo: thấy lạ, là từ hôm khánh thành
xong đến nay, ít đêm ông không thấy anh em… về! Đêm, trong giấc ngủ chập chờn,
thấy tiếng anh em láu nháu, tiếng súng ống va vào nhau, tiếng gọi nhau í ới,
rồi tiếng hô “xếp hàng”, “xung phong”… rõ mồn một. Hôm đầu thấy sờ sợ, sau đêm
nào không thấy anh em “về” lại thấy… nhơ nhớ. Các cựu tù đạp xe về đây thắp
hương hàng ngày. Song thấy lạ, là cứ hôm nào thắp hương vào các ngày lễ, kỷ
niệm (như 30/4, 19/12, 2/9…), bát hương lại cháy đùng đùng, và cũng chỉ cháy
vào những ngày ấy. Thế nên dân trong vùng đồn đại rằng ngôi đền nhỏ rất
“thiêng”, chẳng ai dám động chạm, khiếm nhã… Có lần, Nhà ngoại cảm Đặng Bá Hiệp
đã về đây. Sau khi thắp một tuần nhang làm lễ ở Đài tưởng niệm, ông Hiệp ngẩn
người ra rồi rối rít: Các ông ơi, anh em “về” đây đông lắm, đang xếp hàng tề
tựu, đông đủ…, làm ai cũng tủi tủi, mừng mừng… mà càng tin ở công việc mình
đang làm hơn…
Những chuyện đại loại như thế thì nhiều; coi là “tâm linh” cũng
được, mà coi là “lòng tin” cũng được. Song có một chuyện ngẫu nhiên đến kỳ lạ
không thể không kể đến, mà ông Bảng vẫn cho rằng do có “luật nhân- quả”. Ấy là
chuyện vể cô con gái út Lâm Thị Thanh Huyền bị mất tích suốt nhiều năm, ông
Bảng tìm lại được đúng 2 giờ đồng hồ sau khi làm lễ khánh thành Đài tưởng niệm.
Chẳng là năm 1997, tốt nghiệp
PTTH, Lâm Thị Thanh Huyền trúng tuyển vào Đại học Giao thông vận tải- Hà Nội.
Học hết năm thứ nhất, Huyền chuyển trường, thi đậu khoa Toán Tin - ĐH Quốc gia
Hà Nội, rồi được cấp học bổng đi du học ở Australia. Trước khi con đi du học,
ông Bảng chỉ cho con gái được cuốn sách “Nhân- quả” mà lâu nay ông rất quý, làm
hành trang. Ở Australia, Huyền được một bà mẹ nuôi người Pháp coi như con gáI,
vì bà không có con. Rồi tai hoạ liên tục ập đến: Huyền bị ốm nặng, bà mẹ nuôi
người Pháp tận tình đưa Huyền sang tận Mỹ chữa chạy. Hôm Huyền ra viện, một tai
hoạ khác lại ập đến: chiếc tacxi chở hai mẹ con đâm vào xe tải, bà mẹ nuôi chết
tại chỗ, còn Huyền mất trí nhớ hoàn toàn sau những ngày lại nằm viện. Đồ đạc và
giấy tờ tuỳ thân cũng mất hết, Huyền không biết mình là ai, ở đâu…? Ra viện,
Huyền lang thang một mình giữa thành phố New York, kiếm sống bằng nghề rửa
chai, lọ cho một nhà hàng. Do Huyền chỉ nhớ đúng hai từ “Việt Nam”, “Hồ Chí
Minh” trong đầu, nên một nữ thương nhân Trung Quốc cảm động, nhận làm con nuôi
rồếnau đưa qua cửa khẩu Lạng Sơn, hòng giúp Huyền có cơ hội tìm về được nhà. Về
đến Hà Nội rồi, Huyền vẫn không nhớ mình là ai. Lại đi làm thuê, từ rửa bát,
bán bánh mỳ đến bán sách cũ…
Lại nói đến bạn bè ở trường. Tưởng Huyền đã bỏ về Việt Nam, bạn bè
gói ghém hết đồ đạc, sách vở (trong đó có cuốn Nhân- quả) gửi về Việt Nam cho
Huyền. Song do địa chỉ không rõ, món hàng ấy cũng bị thất lạc, rồi chẳng ai
nghĩ đến nữa.
Làm nghề bán sách báo cũ. Trong một lần mua lại được món sách cũ để
bán, thấy cuốn “Nhân- quả” hay hay, Huyền giữ lại cho mình, mà không hề ngờ
rằng: đó chính là cuốn sách mà bố đã tặng mình 4 năm về trước. Vô tình, Huyền
lần gỡ những lớp giấy bọc kỹ càng ngoài bìa sách, một tấm “Chứng minh nhân dân”
rơi ra. Huyền ngỡ ngàng khi “cô gái” trong tấm ảnh có tên Lâm Thị Thanh Huyền
trên tờ “Chứng minh nhân dân” trông rất… giống mình. Đọc trên bìa sách thấy ghi
chữ “Bang” và một số điện thoại. Tò mò, mấy lần Huyền gọi về số điện thoại ấy
hỏi: “Có phải nhà… “Bác Bang” không ạ?” thì đều nhận được câu trả lời: “Nhầm
máy!”…
Bao năm ông bảng tưởng rằng đã mất con.
Ông Bảng nhớ lại: Hôm ấy là ngày 26 tết âm lịch, năm 2004. 4 giờ
chiều, anh em làm lễ khánh thành Đài tưởng niệm Liệt sỹ, thì đúng 6 giờ, cháu lại
điện về nói rành rọt: “Đấy có phải nhà bác Bang, người nhà Lâm Thị Thanh Huyền,
sinh ngày…, quê quán… không ạ”… Ngay sau cuộc điện thoại ấy, không gian như vỡ
òa, cha con đã nhận ra nhau. Và ngay đêm ấy, Huyền đã được đoàn tụ với gia
đình.
Thì ra trong những
ngày học ở Australia, do rất quý cuốn “Nhân- quả” bố tặng, nên Huyền giữ gìn
rất cẩn thận, rồi cô nhét luôn tờ giấy “Chứng minh nhân dân” của mình vào bìa
cuốn sách để tiện gìn giữ. Sau bao năm lưu lạc qua bao người, cuốn sách vô tình
trở về chủ cũ. Và chính nhờ cuốn “Nhân- quả” ấy, Huyền đã tìm lại được gia đình
của mình sau bao năm lưu lạc, mất trí nhớ…
Bây giờ, Lâm Thị Thanh Huyền đã có chồng, sắp sinh con với một gia
đình hạnh phúc. Hiện Huyền đang mở lớp dạy học tại nhà với mức thu nhập ổn định
ở Hà Nội. Còn ông Bảng, ông lại coi cuốn sách “Nhân- quả” như một báu vật; vì
có nó- mà thật ra là vì chữ “Nhân” - ông đã tìm lại được đứa con gái yêu của
mình…
Cũng từ hôm ấy, ông Bảng càng đau đáu đến những việc tâm linh, nghĩa
tình mà chăm chút hết lòng những kỷ vật làm từ máu chiến sỹ. Ông bảo: Tâm linh
hay không chưa biết; nhưng Nhân-quả thì… “quả” là có thật!
Thế nên bây giờ ở xã Nam Triều, cả “bà giáo” và dân làng chẳng ai
còn gọi ông Bảng là “ông già… khùng” như xưa nữa. Có chẳng, anh em cựu tù chỉ gọi
vui ông là “Ông già khùng vĩ đại” mà thôi./.
T.N
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét